Bộ trưởng Vinh: Không thu hút FDI bằng mọi cách
(Dân trí) - Khẳng định vẫn sẽ tiếp tục dành ưu đãi cho FDI nhưng Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết, Việt Nam không thu hút bằng mọi cách mà đã chọn lọc, có điều kiện.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 1/4 trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp FDI cũng là động lực chính góp phần gia tăng xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu. Thu hút và tận dụng vốn FDI vẫn là một trong những sách lược quan trọng để phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện tượng một loạt các dự án bị thu hồi giấy phép cộng với sự chững lại của nguồn vốn này đang đặt ra câu hỏi sức cạnh tranh của Việt Nam liệu có đang yếu đi trong vấn đề thu hút FDI?
Ngoài ra, trong 2 năm qua, nhiều dự án FDI dang dở, bị rút giấy phép, liệu các chủ đầu tư có phải bồi thường khi đã làm mất cơ hội đầu tư của nhiều địa phương, thậm chí khiến cuộc sống của hàng ngàn gia đình bị đảo lộn?
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh (Ảnh: BD).
Trong chương trình Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời tối 7/7, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã có những giải đáp cụ thể về tình hình thu hút FDI của Việt Nam hiện nay cũng như những vấn đề liên quan:
Nhật Bản mặc dù vẫn là nhà đầu tư số một tại Việt Nam nhưng hiện đã đổ hàng tỷ USD vào Myanmar. Nhiều doanh nghiệp lớn khác của Nhật Bản như Toyota, Mitsubishi cũng tuyên bố mở rộng nhiều cơ sở tại Thái Lan, Malaysia... trong khi các cơ sở của họ tại Việt Nam vẫn án binh bất động. Nhật Bản hiện có 7.000 doanh nghiệp ở Thái Lan nhưng ở mới chỉ có 1.500 doanh nghiệp tại Việt Nam. Liệu có phải tính cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đang sụt giảm hay không, thưa Bộ trưởng?
Thông tin Nhật Bản đổ hàng tỷ USD vào Myamar là không chính xác vì nước này mới tuyên bố mở cửa cách đây khoảng 7 tháng. Hiện nay, các quốc gia đều đang rất quan tâm đến Myanmar, trong đó có Nhật Bản nhưng họ cũng chưa đổ hàng tỷ USD vào đây mà mới chỉ trong giai đoạn nghiên cứu, thăm dò để có những dự án lớn.
Nhưng với thị trường Thái Lan và Indonesia thì điều đó là đúng. Bởi vì hai thị trường này rất hấp dẫn trong khu vực châu Á và đã mở cửa trước Việt Nam rất nhiều. Thực tế, Thái Lan và Indonesia có môi trường thu hút FDI rất cạnh tranh, do đó, việc Nhật Bản có 7.000 doanh nghiệp đang đầu tư ở Thái Lan so với việc ở Việt Nam chỉ có 1.500 doanh nghiệp thì cũng bình thường.
Trong những năm vừa qua, vốn FDI đăng ký của Việt Nam có giảm nhưng chỉ là giảm mạnh so với thời kỳ đỉnh cao như 2009. Vốn thực hiện thì không suy giảm nhiều. Có nhiều người không đồng tình với quan điểm này, cho rằng đó chỉ là cách nói bảo vệ, nhưng không phải. Tôi có số liệu từ năm 2005 đến 2013, vốn FDI thực hiện bình quân 11 tỷ USD, 6 tháng đầu năm nay đã giải ngân được 5,7 tỷ USD, cao hơn nhiều cùng kỳ năm trước.
Bây giờ các địa phương của chúng ta đã khôn ngoan hơn, hiểu biết hơn, chính sách chặt chẽ hơn nên chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện đã thu hẹp lại. Đây là điều rất tốt.
So với các nước bên cạnh, chẳng ai đứng lại cũng như bị tụt hạng, tất cả đều đi lên và đi lên nhanh hơn. Cách đây 20 năm, Việt Nam là mảnh đất vàng cho nhà đầu tư nước ngoài vì lao động rất rẻ, tài nguyên nhiều và ưu đãi lớn, thậm chí chúng ta bỏ tiền ra để giải phóng mặt bằng cho họ. Nhưng bây giờ những lợi thế đó dần mất đi và chúng ta phải thắt chặt lại, chọn những dự án công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, ít ô nhiễm môi trường hơn, khiến thu hút FDI trở nên khó khăn. Trong khi đó, hạ tầng của Việt Nam không tốt, thủ tục hành chính chưa được cải thiện nhiều thì dẫn đến môi trường của chúng ta giảm xuống.
Nhân công giá rẻ cũng không còn là lợi thế nữa vì kinh tế Việt Nam đã có tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người tăng lên nên mức lương tối thiểu cũng tăng lên. Đây là điểm mà doanh nghiệp đầu tư nước ngoài rất sợ.
So với tiến bộ của Thái Lan và Indonesia thì có thể nói, Việt Nam có nhiều mặt hơn, nhưng thực sự chúng ta đang thua kém về tốc độ.
Thưa Bộ trưởng, Việt Nam đã ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài trong 20 năm và sẽ còn duy trì phát huy ưu đãi đến khi nào?
Sẽ còn ưu đãi trong thời gian rất dài vì không ưu đãi thì nhà đầu tư không vào, bởi họ tìm kiếm lợi nhuận. Nước nào cũng làm như vậy, không có chuyện 20 năm trước ưu đãi, 20 năm sau không ưu đãi nữa, không có chuyện đó, chỉ có điều là ưu đãi như thế nào.
Giai đoạn đầu mở cửa, chúng ta trải thảm đỏ chào đón những giờ thì không. Chúng ta chỉ ưu đãi những ngành tạo ra giá trị gia tăng cao, nói cách khác là vẫn phải ưu đãi nhưng ưu đãi sao cho hợp lý, tạo ra lợi ích cho quốc gia và lợi ích cho cả doanh nghiệp.
Liên quan đến việc hàng loạt dự án FDI bị thu hồi do để hoang hóa, không đảm bảo tiến độ đã cam kết nhưng lại không có chủ đầu tư nào phải bồi thường, thậm chí để có đất sạch giao cho các chủ đầu tư thì hàng nghìn gia đình đã phải di dời. Theo Bộ trưởng, tại sao lại có tình trạng như vậy?
Chế tài để phạt các doanh nghiệp này đúng là khó. Chúng tôi đã nghiên cứu thì không một nước nào trên thế giới có quy định phạt doanh nghiệp nước khác mà chỉ có chung chế tài là sẽ thu hồi nếu dự án chậm tiến độ. Hiện chúng tôi đang học tập kinh nghiệm của thế giới để Việt Nam có cách làm khác đi.
Về chủ trương tôi đồng ý rất nhanh chóng, không thẩm định quá lâu miễn là doanh nghiệp có dự án, tính toán hiệu quả, lúc đó có thể tạm cấp đất cho chủ đầu tư.
Sau 2 năm, nếu chủ đầu tư hoàn thành cơ bản tiến độ và chấp nhận được thì sẽ kiểm tra lại và cấp phép thực tế. Căn cứ vào công nghệ của doanh nghiệp, lúc đó mới cấp ưu đãi là doanh nghiệp công nghệ cao.
Thưa Bộ trưởng, để tính toán hiệu quả thực sự của nguồn vốn FDI thì chúng ta cũng phải biết chi phí mà đất nước chúng ta đã bỏ ra để thu hút những đồng vốn đó. Liệu có tỷ lệ gì để làm rõ việc này không, như để thu hút 1 USD đầu tư trực tiếp nước ngoài thì chúng ta phải bỏ ra bao nhiêu, ngoài ra còn chi phí để xúc tiến đầu tư, những ưu đãi thuế, tài nguyên đất và đầu tư cơ sở hạ tầng?
Không ai có thể tính được và không một quốc gia nào có thể tính được. Nhưng từng dự án có thể xác định được mức bỏ ra và thu về. Chính từ so sánh này mà chính quyền địa phương và Chính phủ có thể quyết định dự án đó được thực hiện hay không thực hiện.
Nhưng tựu chung lại, cho đến giờ phút này, lĩnh vực đầu tư nước ngoài đang chiếm tỷ trọng vô cùng quan trọng với kinh tế Việt Nam. Tổng mức đầu tư trực tiếp nước ngoài đang chiếm 1/4 vào tổng vốn đầu tư xã hội và có chất lượng cao.
Trên 60% kim ngạch xuất khẩu đến từ lĩnh vực FDI, các doanh nghiệp này cũng tạo ra 2 triệu việc làm trực tiếp, tới đây có thể tăng lên 3 triệu và mang đến cho Việt Nam công nghệ mới, cách quản lý và làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này chúng ta không phủ nhận được.
Xem Video Clip:
Bích Diệp (ghi)