20 nhà máy nhiệt điện than ngốn khoảng 45 triệu tấn than mỗi năm

(Dân trí) - Cả nước hiện có 20 nhà máy nhiệt điện than đang vận hành với tổng công suất đặt máy 13.110 MW, tiêu thụ khoảng 45 triệu tấn than/năm, với lượng tro xỉ, thạch cao thải ra hơn 15.700 triệu tấn/năm.

(Ảnh minh hoạ).
(Ảnh minh hoạ).

Theo thông tin từ Bộ Công Thương, cả nước hiện có 20 nhà máy nhiệt điện than đang vận hành với tổng công suất đặt máy 13.110 MW, tiêu thụ khoảng 45 triệu tấn than/năm, với lượng tro xỉ, thạch cao thải ra hơn 15.700 triệu tấn/năm. Dự kiến tới năm 2020 có thêm 12 dự án nhiệt điện được đưa vào hoạt động và tổng công suất lắp đặt NĐT là 24.370 MW.

Theo kiểm tra của Bộ Công Thương, tính đến tháng 11, các nhà máy đã thực hiện đầy đủ việc lập và trình Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM).

Một số nhà máy đã đi vào vận hành nhưng chưa có giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường mà báo chí phản ánh như: Vũng Áng, Vĩnh Tân 2, Duyên Hải 1, Formosa Hà Tĩnh. Tuy nhiên, những nhà máy này cũng đã gấp rút hoàn thành.

Theo Bộ Công Thương, hiện tại, nước thải công nghiệp, sinh hoạt của các nhà máy được xử lý đạt Quy chuẩn về môi trường và hầu hết được tuần hoàn tái sử dụng cho các mục đích khác nhau trong nhà máy. Nước làm mát sau quá trình trao đổi nhiệt để làm mát bình ngưng, được giải nhiệt và xả ra nguồn tiếp nhận như sông hoặc biển và đảm bảo nhiệt độ thấp hơn 400C để không ảnh hưởng tới môi sinh.

Các nhà máy đều lắp đặt hệ thống lọc bụi tĩnh điện (ESP), hệ thống xử lý khí NOx và xử lý khí SO2 (có 02 nhà máy với công nghệ cũ nên không lắp hệ thống xử lý SO2 là Nhiệt điện Phả Lại I và Ninh Bình). Do vậy, khí thải của các nhà máy được xử lý đáp ứng QCVN 22:2009/BTNMT - về khí thải công nghiệp nhiệt điện.

Riêng khói bụi, với công nghệ hiện nay, khi khởi động lò hơi hoặc khi công suất lò thấp phải đốt kèm dầu FO, HFO và lúc này hệ thống lọc bụi tĩnh điện chưa đưa vào hoạt động do nguy cơ cháy nổ nên có hiện tượng khói đen tại miệng ống khói. Bộ Công Thương đang chỉ đạo các nhà máy nhanh chóng có giải pháp khắc phục hiện tượng này.

Về quản lý chất thải nguy hại, Bộ Công Thương cho biết, nước thải nguy hại được kiểm soát chặt chẽ theo quy định. Tuy nhiên, một số nhà máy vẫn mắc một số lỗi, như: thu gom và phân loại chất thải nguy hại chưa triệt để, xây kho lưu giữ chất thải nguy hại không đúng quy định, quản lý chứng từ chất thải nguy hại chưa chặt chẽ… Bộ Công Thương đã chỉ đạo các chủ đầu tư, doanh nghiệp nhanh chóng xử lý và đã khắc phục gần như triệt để.

Ngoài ra, một số vướng mắc trong thực thi pháp luật bảo vệ môi trường của các nhà máy nhiệt điện, qua rà soát, đánh giá Bộ Công Thương nhận thấy, chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều vướng mắc: nhiều thủ tục hành chính có nội dung, đối tượng, bản chất trùng lắp; thiếu quy định cụ thể về trách nhiệm của các Bộ, ngành trong tổ chức thực hiện pháp luật về môi trường; thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành.

Trong thời gian tới, Bộ Công Thương cho rằng cần làm rõ trách nhiệm, việc phân công, phân cấp và công tác phối hợp giữa các Bộ/ngành, giữa trung ương và địa phương trong công tác quản lý môi trường của ngành, lĩnh vực.

Đối với Bộ Công Thương sẽ rà soát các dự án có nguy cơ ô nhiễm để kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ môi trường và xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật.

Đối với các dự án đầu tư có nguy cơ ô nhiễm môi trường, Bộ khẳng định sẽ thẩm định chặt chẽ các hạng mục bảo vệ môi trường ngay từ giai đoạn thiết kế cơ sở; Đánh giá các nguy cơ, rủi ro về môi trường đối với các dự án đầu tư, giám sát công tác bảo vệ môi trường tại các dự án đầu tư trong giai đoạn xây dựng.

Đồng thời, kiên quyết từ chối đầu tư các dự án có công nghệ tiềm ẩn các nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, từng bước đổi mới, cải tiến công nghệ đối với các nhà máy hiện có để giảm phát thải, cải thiện môi trường. Lắp đặt hệ thống giám sát, quan trắc môi trường tự động, kết nối với đơn vị chức năng tại địa phương theo quy định.

Phương Dung