Vĩnh biệt thầy Hoàng Như Mai
“Chiều nay, tôi được tin thầy Hoàng Như Mai vừa từ trần. Biết là tin buồn rồi sẽ đến nhưng không khỏi bàng hoàng, thảng thốt bởi mới trưa thứ Ba vừa rồi vào bệnh viện thăm thầy, dù phải thở bằng máy thầy vẫn cố gắng ra dấu nhận biết... ”.
Bàng hoàng, thảng thốt còn bởi một phần đời của tôi đã gắn bó với thầy, từ lúc học ĐH, làm khóa luận tốt nghiệp với thầy ở khoa Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội cho đến lúc được thầy hướng dẫn làm luận án tiến sĩ ở Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM).
Sống chí tình với học trò
Thầy Hoàng Như Mai đã đạt được các danh hiệu cao quý nhất trong sự nghiệp giáo dục. Thầy đã được Nhà nước phong học hàm giáo sư (GS) ở đợt sớm nhất, đã được tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân (NGND), huân chương Lao động hạng Nhất. Nhưng đối với học trò, thầy rất gần gũi, chí tình. GS Nguyễn Lộc trong bài phát biểu nhân dịp mừng thọ 80 tuổi của thầy (năm 1997) cũng nhấn mạnh đến cái tình dành cho nhiều thế hệ sinh viên đó của thầy: “Nhưng có lẽ vượt lên trên tất cả chính là cái tình của thầy. Thầy Hoàng Như Mai là một người sống chí tình với học trò, với bạn bè xung quanh và với cuộc sống, được học sinh hết sức quý mến”.
GS Nguyễn Lộc kể hồi còn chiến tranh, nhiều sinh viên khoa Ngữ văn được bố trí vào Nam công tác. Chuyện đi Nam lúc bấy giờ được tổ chức hết sức bí mật nhưng nhiều người trước khi đi cũng tìm mọi cách để gặp được thầy, trước là để thăm thầy, sau đó là để nhận ở thầy một lời khuyên bảo. Khi ra chiến trường rồi, họ cũng không quên viết thư về báo tin cho thầy và tâm sự cùng thầy. Những lá thư ấy bao giờ thầy cũng giữ hết sức trân trọng. Năm 1986, Trường ĐH Tổng hợp làm lễ mừng 30 năm ngày thành lập, GS Hoàng Như Mai được mời về thăm lại khoa Ngữ văn. Thầy đã xúc động làm bài thơ Trở về khoa Ngữ văn, trong đó thầy viết:
Nhớ khi Ký Phủ, Đồng Văn
Mấy phen mì độn, mấy lần đạn bom
Thầy cô, người mất người còn
Sinh viên mấy nấm mồ chôn chiến trường
Ba mươi năm, một chặng đường
Về đây có cả buồn thương vui mừng.
Lớp sinh viên chúng tôi sau năm 1975 khi được học tập, gần gũi với thầy đã cảm thấy rất rõ cái tình đó của thầy. Trong các thầy cô ngày đầu giải phóng vào Sài Gòn giảng dạy, có lẽ thầy là người nhận được nhiều thư của sinh viên nhất. Nhiều bạn do hoàn cảnh phải sống nơi xứ lạ quê người cũng viết thư liên lạc thường xuyên với thầy. Những chuyện đó hơn 30 năm sau thầy vẫn còn nhớ như in. Tôi nghĩ đó không chỉ là do thầy có trí nhớ phi thường mà còn là tấm lòng sâu nặng đối với học trò.
Một tâm hồn nghệ sĩ
Nhớ lại những ngày đầu sau giải phóng, chúng tôi được học với rất nhiều thầy cô từ Hà Nội vào như Trần Đình Hượu, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Hải Hà… Nhưng ấn tượng nhất vẫn là thầy Hoàng Như Mai với phong thái rất nghệ sĩ của thầy. Và đặc biệt là đôi mắt rất sáng của thầy. Những bài giảng của thầy rất thuyết phục, bởi với tư cách là người trong cuộc, với giọng đọc thơ ngân rung truyền cảm, thầy đã làm chúng tôi như sống lại không khí hào sảng của buổi đầu kháng chiến chống Pháp qua cảm hứng lãng mạn anh hùng trong Ngày về của Chính Hữu, Nhà tôi của Yên Thao, Tây tiến của Quang Dũng. Các nhà văn sống cùng thời với thầy như Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương... như hiện ra trước mắt chúng tôi bằng xương bằng thịt qua hồi ức của thầy. Cả Màu tím hoa sim quen thuộc của Hữu Loan cũng hấp dẫn hơn qua lời bình gan ruột của thầy.
Sau này khi tìm hiểu về cuộc đời của thầy, chúng tôi càng thấy thân thuộc hơn với thầy. Hóa ra trước cách mạng thầy cũng đã từng băn khoăn tìm kiếm lẽ yêu đời, đã một thời thấy học hành không có ích gì trong thời buổi rối ren, loạn lạc ấy nên đã bỏ ĐH Y rồi ĐH Luật để đến các Thư viện Quốc gia, Thư viện Viễn Đông bác cổ đọc sách về chủ nghĩa Mác. Và ngay sau Cách mạng Tháng Tám đã viết những cuốn như Thặng dư giá trị, Đời sống thợ thuyền trong xã hội tư bản, Lênin và Cách mạng Tháng 10… cho tủ sách Vỡ lòng của Nhà xuất bản Hàn Thuyên.
Chúng tôi cũng thấy thầy gần gũi với miền Nam của chúng tôi vì biết thầy đã từng cùng với các nghệ sĩ Sĩ Tiến, Đào Mộng Long, Thu Hà, Phan Ninh… thành lập đoàn kịch Độc Lập để tham gia phong trào Nam tiến sau Cách mạng Tháng Tám, đã viết vở kịch Dòng sông biên giới nói về nỗi đau chia cắt đất nước. Sau ngày đất nước thống nhất, vào TP.HCM công tác, thầy lại viết vở kịch Vẽ chân dung cụ Đồ Chiểu (1982) để ca ngợi nhà thơ Nam Bộ Nguyễn Đình Chiểu. Thầy cũng rất yêu cải lương, đặc sản của Nam Bộ và đã viết sách nghiên cứu về cải lương, về soạn giả Trần Hữu Trang, tác giả của các vở Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt nổi tiếng.
Tận tâm trong sự nghiệp trồng người
Nhưng trước sau, sự nghiệp cả đời của thầy vẫn là nghề dạy học. Bắt đầu bằng sự nể nang bạn bè nên dạy giúp môn Văn học Việt Nam và Văn học Pháp ở Trường Trung học tư thục Đông Hải ở thị xã Hải Dương năm 1943, sau đó như một cái duyên, thầy đã gắn bó suốt đời với ngành giáo dục. Trong kháng chiến, thầy được Tỉnh hội Việt Minh tỉnh Thái Bình cử làm hiệu trưởng Trường Trung học Chuyên khoa tư thục Phan Thanh, rồi sau đó làm hiệu trưởng Trường Sư phạm Việt Bắc và đã từng đưa các giáo sinh của trường sang học ở Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc).
Hòa bình lập lại, thầy đảm nhiệm chức hiệu trưởng Trường Sư phạm trung cấp Trung ương, sau đó dạy ở khoa Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội. Với giáo trình Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1960, thầy đã đặt những viên gạch đầu tiên cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám. Sau ngày giải phóng miền Nam, thầy được mời thỉnh giảng ở ĐH Văn khoa Sài Gòn và đến năm 1980 thầy về dạy ở khoa Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp TP.HCM (nay là Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia TP.HCM).
Đã có biết bao thế hệ sinh viên, học sinh được thầy đào tạo, nhiều người hiện đảm trách vị trí quan trọng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, nhiều người là GS ở các trường ĐH và cơ quan nghiên cứu, nhiều người trở thành các văn nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo có tên tuổi.
Vĩnh biệt thầy, chúng em sẽ nhớ mãi đến hình ảnh của thầy, đến mái tóc nghệ sĩ, đôi mắt sáng cùng giọng ngâm thơ hào sảng, truyền cảm của thầy và đặc biệt là tấm chân tình của thầy dành cho những học trò nhỏ của mình.
Sau một thời gian điều trị tại BV 175 TP.HCM, GS-NGND Hoàng Như Mai đã qua đời lúc 15 giờ 20 ngày 27-9-2013 tại TP.HCM, hưởng thọ 95 tuổi. GS-NGND Hoàng Như Mai sinh ngày 6-8-1920 tại phủ Lạng Thương, nay thuộc tỉnh Bắc Giang. Quê quán tại thôn Nội Am, xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thầy xuất thân trong một gia đình trí thức quý tộc quan lại cao cấp. Trải qua biết bao biến động dữ dội, thầy vẫn gắn bó với nghề giáo cả một đời người. Năm 1982, thầy được phong học hàm GS, năm 1988 thầy được phong danh hiệu Nhà giáo ưu tú, năm 1990 thầy được phong danh hiệu NGND và được Nhà nước tặng thưởng huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì năm 1961, huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất năm 1985, huân chương Lao động hạng Nhất năm 1995, huy chương Vì sự nghiệp giáo dục và nhiều huy chương và bằng khen khác.
GS-NGND Hoàng Như Mai học ĐH Y khoa, ĐH Luật trước Cách mạng Tháng Tám và bắt đầu đứng trên bục giảng từ năm 1943 tại Trường Trung học tư thục Đông Hải (Hải Dương). Đến năm 1990 thầy nghỉ chế độ tại TP.HCM. Sau khi nghỉ chế độ, ngoài việc giảng dạy tại khoa Ngữ văn và Báo chí của Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM), thầy còn làm hiệu trưởng Trường THPT tư thục Trương Vĩnh Ký, hiệu trưởng danh dự Trường ĐH Dân lập Văn Hiến, tổng chủ biên bộ sách giáo khoa Văn học cấp ba và vẫn tham gia đào tạo trí thức cao cấp cho ngành. Hơn 20 năm nay, thầy đảm nhiệm cương vị chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM. Thầy là người thầy của nhiều thế hệ, là một nhà văn hóa lớn, nhà viết kịch, diễn viên kịch, nhà thơ…
Q.Dũng |
TS Võ Văn Nhơn
Theo Pháp luật TPHCM
(*) TS Võ Văn Nhơn là trưởng bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM)