GS Nguyễn Văn Lợi:
Sách công nghệ giáo dục cần cho học sinh dân tộc thiểu số
(Dân trí) - “Từ góc nhìn của người có hơn 50 năm nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, chúng tôi xin được bàn góp về vấn đề trên. Sách Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục cần cho việc dạy Tiếng Việt đối với học sinh người dân tộc thiểu số”.
Trên đây là ý kiến của GS Nguyễn Văn Lợi - nguyên Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam về bộ sách giáo khoa (SGK) Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại, hiện đang được dư luận quan tâm.
Theo GS Lợi, nước ta là quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ. Lãnh thổ Việt Nam với 54 dân tộc cùng chung sống, nói gần 100 thứ tiếng khác nhau.
Tuy nhiên, hiện nay, trình độ sử dụng tiếng Việt trong Dân tộc thiểu số (DTTS) không cao. Xét về mặt tâm lí sư phạm, việc học đọc, học viết tiếng Việt đối với học sinh (HS) người Kinh, khác đối với HS DTTS.
Đối với HS người Kinh, học đọc -viết tiếng Việt là học đọc - viết tiếng mẹ đẻ. Đối với HS DTTS học đọc - viết tiếng Việt là học đọc - viết ngôn ngữ thứ hai.
Chuyên gia này cho rằng, khi HS người Kinh, 6 tuổi, học lớp 1, năng lực tiếng Việt đã khá tốt. Việc dạy các em học đọc - viết là việc chỉ dạy cho các em mối liên hệ của âm đã có trong tâm thức các em.
Việc dạy đọc-viết tiếng mẹ đẻ không cần thiết phải xuất phát và đi sâu vào các khái niệm ngữ âm học. Càng không nên dạy cách đọc cách viết các tiếng “chân không nghĩa”. Cần dạy các em đọc - viết các tiếng có nghĩa, vốn là bối cảnh tồn tại và khu biệt các âm vị. Nhờ vậy, các em học và nhớ được cách đọc - viết các âm vị trong các bối cảnh ngữ âm - âm tiết (tiếng) khác nhau. Đồng thời, đây là cách để củng cố và phát triển vốn từ vựng của HS.
Theo cách này, dần dần dạy các em quy tắc đọc - viết các đơn vị ở bậc cao hơn là từ, ngữ, câu. Cũng như không cần thiết dạy đọc - viết thông qua các hình khối có màu sắc, tròn méo khác nhau, vốn là cách dạy trẻ chậm phát triển trí tuệ và ngôn ngữ.
Học tiếng mẹ đẻ là học từ cha mẹ các thói quen và rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Do vậy, trong sách dạy đọc - viết tiếng mẹ đẻ, thay cho việc dạy các tri thức ngữ âm học, cần tăng cường rèn luyện cho HS các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.Tiếng Việt đối với HS DTTS không phải là tiếng mẹ đẻ, mà là ngôn ngữ thứ hai. Các em học tiếng Việt khi trong tâm thức các em, hệ thống ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp ngôn ngữ mẹ đẻ đã hình thành và tiếp tục được bổ sung, phát triển. Tiếng Việt và ngôn ngữ DTTS Việt Nam có một số đặc điểm đồng nhất, nhưng có nhiều nét khác biệt.
Tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ Mường, Tày, Thái, H'mông, Dao là ngôn ngữ đơn tiết, có thanh điệu, trong khi các ngôn ngữ như Chăm, Khmer, Ê Đê, Gia rai, Kơ ho, Ba na, Xơ Đăng… là những ngôn ngữ tựa song tiết, không có thanh điệu.
Sách tiếng Việt lớp 1 CNGD dạy sâu về ngữ âm học có thể không thích hợp đối với học sinh người Kinh, lại có thể phát huy tác dụng đối với học sinh DTTS.
“Theo các nhà tâm lí ngôn ngữ, đặc điểm của quá trình học ngôn ngữ thứ hai là, khi thụ đắc ngôn ngữ thứ hai, trong đầu người học, một cách vô thức, luôn xảy ra sự đối chiếu so sánh giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ hai, làm nảy sinh các hiện tượng giao thoa, chuyển di tích cực và tiêu cực. Do vậy, phương pháp dạy-học ngôn ngữ thứ hai khác với dạy học tiếng mẹ đẻ. Đối với HS lớp 1 người DTTS, bắt đầu học đọc - viết tiếng Việt, khi trong tâm thức trẻ chưa có hệ thống ngữ âm - âm vị học tiếng Việt. Chương trình và sách giáo khoa tiếng Việt có nhiệm vụ không chỉ giúp các em nắm được mối tương quan giữa các âm vị và kí tự tiếng Việt, mà còn hướng dẫn các em cách phát âm đúng các âm vị và kết hợp các âm vị thành âm tiết có nghĩa - tiếng.
Đối với HS người H'mông, việc phát âm đúng các âm tiết có âm cuối tắc vô thanh rất khó khăn. Còn đối với HS người Khmer, Ba Na, Chăm, Ê Đê, Raglai…, việc phát âm đúng 6 thanh điệu tiếng Việt là thách thức lớn”, GS Lợi cho biết.
Theo tài liệu Điều tra thực trạng kinh tế xã hội về 53 dân tộc thiểu số năm 2015, chỉ có 79 % người DTTS biết đọc, biết viết tiếng Việt. Tỷ lệ này ở một số dân tộc sống ở vùng xa vùng sâu chỉ dưới 50%: ví dụ La Hủ 34,4%, H'mông 46,6 %, Brâu 48,2 %, Cơ lao 49,8%, Hà Nhì 50,5%.
Do vậy, chuyên gia này cho rằng, việc cung cấp cho HS lớp 1 người DTTS, những hiểu biết chi tiết, ngọn ngành về ngữ âm tiếng Việt là cần thiết.
Ngoài ra, có thể cung cấp cho các em các tri thức tương đối sâu về ngữ âm học (khái niệm âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối), tạo cơ sở cho qua trình đối chiếu so sánh, dù là vô thức giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt trong tư duy HS DTTS.
Từ đó, ông cho rằng, sách tiếng Việt lớp 1 CNGD dạy sâu về ngữ âm học có thể không thích hợp đối với HS người Kinh, lại có thể phát huy tác dụng đối với HS DTTS.
Cũng như vậy, việc dạy các em đọc-viết thông qua các khối hình tròn, méo (vốn là phương pháp các nhà sư phạm Xô-viết dùng để dạy trẻ em chậm phát triển tư duy, ngôn ngữ), có thể không cần thiết khi dạy HS có tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, phát triển tâm thần kinh bình thường nhưng hữu dụng khi dạy đọc - viết tiếng Việt cho đối tượng là HS DTTS. Bởi vì, xét về phương diện tâm lí sư phạm, có thể xem trẻ em DTTS cũng gặp khó khăn như trẻ chậm phát triển các kĩ năng nghe - nhận (hiểu) - nói (đọc) - viết tiếng Việt. GS Lợi viện dẫn thông tin từ một tờ báo: “Một lãnh đạo phụ trách tiểu học của Sở GD&ĐT Lào Cai, cho hay, với HS dân tộc thiểu số thì việc học tiếng Việt gần như là học ngôn ngữ thứ hai. Thực tế này khiến cho việc dạy tiếng Việt rất vất vả nếu dạy theo cách đại trà.
Trong khi đó, khi thí điểm áp dụng Tiếng Việt 1-Công nghệ giáo dục thì các em nắm rất chắc về ngữ âm, học đến đâu chắc đến đó, rất hiếm khi HS sai lỗi chính tả.
Việc dùng bộ sách này cho các địa phương vùng sâu vùng xa, có học sinh là người DTTS là hợp lý.
Lào Cai áp dụng sách Tiếng Việt 1-Công nghệ giáo dục với gần như 100% vì thực tế cho thấy đó là phương pháp phù hợp với HS của mình. Tuy nhiên, những TP lớn như Hà Nội thì không sử dụng phương pháp này vì thấy việc thực hiện SGK tiếng Việt đại trà HS được luyện nhiều kỹ năng hơn...”.
Trước thực tế trên, ông đồng tình với đề xuất trên một tờ báo khi cho rằng, sách công nghệ của GS Hồ Ngọc Đại, đặc biệt là cuốn Tiếng Việt 1 - Công nghệ giáo dục dù Hội đồng thẩm định đánh giá "không đạt", nhưng nhiều ý kiến cho rằng cuốn sách đã được cuộc sống thẩm định và nên tiếp tục trao quyền ấy cho "cuộc sống" thay vì một mệnh lệnh hành chính.“Với tư cách là người có nhiều năm nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt và ngôn ngữ các DTTS ở Việt Nam, tôi ủng hộ đề xuất trên.
Trong chủ trương thống nhất một chương trình, nhưng có nhiều sách giáo khoa, phù hợp với HS từng vùng, miền, thì việc dùng bộ sách này cho các địa phương vùng sâu vùng xa, có HS là người DTTS là hợp lý.
Tất nhiên, trước khi đem ra áp dụng, cần sửa chữa một số điểm bất hợp lý như việc dạy học đọc-viết các tiếng chân không về nghĩa, loại bỏ các từ mang tính địa phương,từ cũ ít thông dụng...
Các tác giả bộ sách nên tiếp thu góp ý của những người am hiểu về dạy tiếng Việt cho HS DTTS, nhất là các giáo viên đã trải nghiệm thực tế dạy Sách Tiếng Việt 1-Công nghệ giáo dục”, GS Lợi nói.
Mỹ Hà (ghi)