GS Tôn Thất Tùng: Thiên tư trác việt - Tính cách mạnh mẽ

(Dân trí) - 23 tuổi, lần đầu tiên trên thế giới, ông mô tả chính xác các mạch máu trong gan. 27 tuổi, trở thành “cha đẻ của cắt gan có kế hoạch”. Là Trưởng khoa Ngoại, Đại học Y Hà Nội khi mới 28 tuổi (năm 1940).

Trước Cách mạng Tháng Tám, nhà nghiên cứu ấy đã công bố 63 công trình trên các tạp chí y học Pháp ở Paris và ở Viễn Đông. Được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm hoá ngay trong lần gặp đầu tiên.   

Kỳ I: Tuổi thanh xuân nhiều khám phá, sáng tạo 

Tâm hồn trẻ dễ bị thương tổn

GS Tôn Thất Tùng sinh ngày 10/5/1912 (kém GS Hồ Đắc Di đúng một giáp) ở Thanh Hoá, nhưng sống qua thời thơ ấu và niên thiếu ở Huế. Gia đình ông thuộc dòng dõi hoàng gia, có một ngôi nhà rường, với thửa vườn rộng bao quanh, sát bên bờ con sông Hương, phía trên cầu Bạch Hổ, nhìn sang cồn Dã Viên.

Thời trẻ, anh Tùng học Trường Bưởi, Hà Nội (tên chính thức là Trường Trung học Bảo hộ), sống trong nhà GS Hồ Đắc Di ở phố Hàng Bông. Tâm hồn trẻ trung, dễ bị thương tổn, anh bắt đầu cảm thấy có điều gì đó bất ổn, khiến lòng anh luôn đau đớn.

"Mỗi lần ra đường là một lần tức giận - sau này, GS Tôn Thất Tùng viết. Đường đi lại đều phải nhường cho đám Tây đầm thực dân hay trẻ con Tây lai. Lắm khi chúng rất láo xược đối với trẻ con và người dân lao động nước ta. Chúng nói chuyện với nhau ngay trước mặt tôi, chê cười những tập quán của dân mình, coi tôi như một kẻ đã tách khỏi dân tộc mình rồi! Có lúc tôi cáu tiết, nổi khùng lên với chúng thì chúng quắc mắt nhìn tôi, cười khẩy, rồi nói với cái thế của kẻ thắng trận: "Anh quên là người Pháp đã chiếm thành Nam Định và thành Hà Nội chỉ với vài ba chục người lính thôi ư?"

Chán ngấy đám quan lại ở Huế một mặt thì sợ Tây như sợ hổ, mặt khác lại chà đạp lên người dân lao động nước mình, anh muốn học ngành y để khi ra đời có thể làm một nghề "tự do", không lệ thuộc vào Nam triều hay chính quyền thực dân.

BS Tôn Thất Tùng kết hôn với bà Vi Nguyệt Hồ, cháu nội cụ Tổng đốc Vi Văn Định. Bà Vi Nguyệt Hồ là cháu gọi bằng cô ruột hai bà Vi Kim Ngọc (vợ GS Nguyễn Văn Huyên) và Vi Kim Phú (vợ GS Hồ Đắc Di). Sau này, đại gia đình "ba chàng rể nhà họ Vi" sẽ sống hoà thuận bên nhau ở Chiêm Hoá, Tuyên Quang trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Được tặng Huy chương Bạc của Đại học Paris

Với thiên tư trác việt và tính cách mạnh mẽ, Tôn Thất Tùng vùi đầu vào học tập và nghiên cứu. Mùa đông năm 1935, khi mới 23 tuổi, anh thường đến mổ xác tại Viện Giải phẫu do GS Huard phụ trách. Một buổi chiều u ám và giá lạnh nhưng, đối với anh, thật đáng nhớ suốt đời. Anh bỗng phát hiện một lá gan tử thi đầy những giun là giun; tất cả các ống mật và mạch máu trong gan dường như đều bị nhồi kín bằng vô số con giun lớn nhỏ! Sờ nắn, lần theo những con giun ấy, với mấy ngón tay khéo léo và một cái nạo (curette), anh phẫu tích tất cả các ống mật và mạch máu trong gan. Phẫu tích bằng cái nạo là một sáng kiến độc đáo của anh, nhờ cách đó, chỉ trong 15 phút, anh đã có thể phơi trần các ống mật và mạch máu trong gan để mô tả chúng một cách chính xác nhất.

Trong vòng bốn năm sau đó (1935-1939), Tôn Thất Tùng làm cái công việc buồn tẻ đến rợn người: mổ hơn 200 lá gan người chết! Anh phẫu tích tất cả các lá gan ấy, vẽ thành sơ đồ, rồi đối chiếu chúng với nhau để tìm ra những nét chung. Từ đó anh viết bản luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa nhan đề: Cách phân chia các mạch máu trong gan. Đây thật sự là một khám phá y học bởi vì từ thời cổ đại Hy Lạp cho đến lúc bấy giờ, chưa ai mô tả các mạch máu trong gan được rõ ràng, cặn kẽ như Tôn Thất Tùng. Bản luận văn được tặng Huy chương Bạc của Đại học Paris (Trường Y  Hà Nội lúc bấy giờ là một bộ phận của Đại học Paris).

Cha đẻ của cắt gan có kế hoạch

Sau khi nắm chắc các tĩnh mạch trong gan, năm 1939, Tôn Thất Tùng lần đầu tiên trên thế giới thành công trong việc cắt gan có kế hoạch. Trước ông, một số nhà phẫu thuật Đức, Anh, Nga… cũng đã từng cắt gan, tổng cộng 87 trường hợp, nhưng không theo một kế hoạch nào cả! Sở dĩ phải làm liều như vậy là vì trước ông, chưa ai trên thế giới mô tả được đầy đủ, kỹ càng các mạch máu trong gan; do đó, các nhà phẫu thuật đành cứ phải nhắm mắt làm liều, cắt gan một cách vu vơ, gặp mạch máu nào thì buộc lại, nếu chẳng may bỏ sót - điều này rất dễ xảy ra - thì sau khi đóng bụng lại, người bệnh sẽ chết do chảy máu hay do hoại tử gan! Công trình của Tôn Thất Tùng được gửi tới Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris nhưng lúc đó, chưa ai tin phương pháp của ông!

Nhiều năm sau, thế giới mới hiểu thấu và công nhận phương pháp do Tôn Thất Tùng đề xướng vào năm 1939 - khi ông mới 27 tuổi - và nhà y học Việt Nam mới được công nhận là "cha đẻ của cắt gan có kế hoạch", được tặng Giải thưởng phẫu thuật quốc tế Lannelongue, được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris.

Người Việt Nam thời thuộc Pháp hầu hết thiên về tiếp thụ những kiến thức khoa học sẵn có, chứ chẳng mấy ai nuôi cao vọng tìm tòi, phát minh cái mới. Tôn Thất Tùng là trường hợp đặc biệt hiếm thấy: Từ năm 1936 đến năm 1945, ông đã công bố 63 công trình trên các tạp chí y học của Pháp ở Paris và ở Viễn Đông. Với thành tựu khoa học vượt trội, không thể phủ nhận đó, năm 1940, ông được nhà cầm quyền Đông Dương bổ nhiệm làm Trưởng khoa Ngoại Đại học Y  Hà Nội, khi mới 28 tuổi.

Mến phục Việt Minh, được Bác Hồ cảm hoá

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp.

Hôm ấy, BS Tùng mổ cho một thanh niên ta bị Nhật tra tấn rất dã man: một anh thợ sắp chữ. Lúc hấp hối, anh ấy cầm lấy tay bác sĩ, khuyên ông nên tin vào tương lai dân tộc. Ông bắt đầu suy nghĩ nhiều về phẩm chất người cán bộ Việt Minh.

Sau này, GS Tôn Thất Tùng viết trong hồi ký:

"Cách mạng Tháng Tám bùng nổ ở Hà Nội như một ngọn lửa hồng. Cùng với anh em Việt Minh, chúng tôi giành chính quyền ở Bệnh viện Phủ Doãn. Chỉ cần nổ ba phát súng là ông Chánh y tế Nhật và ông Phó y tế Pháp bỏ chạy; ông trước với lưỡi gơm dài lòng thòng, ông sau với cái cặp đầy hồ sơ (...).

Một hôm tôi được mời gấp đến xem bệnh cho một "lão đồng chí". Bước vào phòng, tôi thấy một ông già gầy xanh nhưng có đôi mắt rất sáng. Đó là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Và từ cuộc gặp đầu tiên hôm ấy tâm hồn tôi chuyển biến theo cách mạng dưới ánh sáng đôi mắt Bác Hồ.

Tôi được nghe các bạn tôi xì xào rằng Bác Hồ chính là Nguyễn ái Quốc đó. Nguyễn Ái Quốc! Cái tên tôi rất quen biết. Từ khi còn học Trường Bưởi, tôi đã nghe nói đến nhà yêu nước vĩ đại này mà tin đồn là đã chết trong một nhà lao ở Hồng Kông. Câu hỏi "Cụ có phải là Nguyễn Ái Quốc không?" luôn vương vấn trong óc tôi. Nhiều lúc tôi định hỏi nhưng rồi không bao giờ dám hỏi cả! Thường thì sau khi tôi tiêm thuốc cho Bác, Bác hay giữ tôi lại để hỏi chuyện công việc, gia đình. Biết vợ tôi vừa sinh con trai đầu lòng, Bác nói: "Để tôi đặt tên cho nó. Tên chú có bộ mộc, nên tôi đặt tên cho con chú là Bách".

Tìm thuốc và dụng cụ Y tế mang lên chiến khu

Những ngày sau đó, quân Tàu "phù" của tướng Lư Hán tiến vào Hà Nội như nước lũ, với danh nghĩa quân Đồng Minh tước vũ khí quân Nhật. Bám đuôi chúng là một số người Việt thuộc mấy đảng chính trị theo Tưởng Giới Thạch. Một hôm, tại Bắc Bộ phủ, BS Tôn Thất Tùng nghe "Phó Chủ tịch nước" Nguyễn Hải Thần phát biểu ý kiến bằng thứ tiếng lơ lớ như người nước ngoài nói tiếng Việt. Ông thầm nghĩ: "Một anh chàng đã quên cả tiếng mẹ đẻ thì còn gì để mà nói đến khả năng cứu vãn đất nước khỏi ách đế quốc!"

Cùng đóng với quân Tàu Tưởng ở Bệnh viện Đồn Thuỷ có hai cố vấn Mỹ. Chính phủ ta giao cho GS Hồ Đắc Di và BS Tôn Thất Tùng tiếp hai vị khách Mỹ kia. Một hôm, Patton - tên một vị cố vấn - châm chọc hỏi:

- Các anh nghĩ sao khi đi theo một chính phủ mà trong quốc khố chỉ còn một triệu bạc?

GS Di bình tĩnh trả lời bằng tiếng Pháp:

- Mais c'est notre gouvernement! (Nhưng đó là chính phủ của chúng tôi!)

Lặng lẽ chuẩn bị cho kháng chiến, BS Tùng được giao nhiệm vụ tìm kiếm thuốc men và dụng cụ y tế để mang dần lên chiến khu. Hầu hết các bác sĩ, y tá trong Bệnh viện Đồn Thuỷ - nơi GS Hồ Đắc Di làm Giám đốc - đều ngả theo cách mạng. Nhưng cái khó là, ở cổng ra vào, bọn Tàu Tưởng vẫn bố trí một tên lính Nhật đứng gác, lăm lăm khẩu súng trong tay. BS Tùng bày mưu: Mang theo một anh y tá biết tiếng Nhật làm phiên dịch, ông lân la hỏi chuyện tên lính gác kia. Trước khi chiếc xe tải chạy vào, ông hỏi thăm quê hương, cha mẹ, vợ con tên lính, khiến hắn ta hết sức cảm động. Và hắn còn cảm động mãi cho đến khi chiếc xe tải chở thuốc quý ra khỏi cổng từ lâu!...

(Còn nữa) 

Hàm Châu