Giảng viên phải dành ít nhất 1/3 quỹ thời gian năm học để làm nghiên cứu

(Dân trí) - Đó là một trong những nội dung Dự thảo Thông tư Quy định chế độ làm việc của giảng viên cơ sở giáo dục đại học mà Bộ GD&ĐT đang lấy ý kiến góp ý.

Một năm học được quy định từ 200 đến 400 giờ chuẩn

Dự thảo Thông tư nêu rõ, thời gian làm việc của giảng viên trong năm học là 44 tuần để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng và tham gia các hoạt động chuyên môn khác và được xác định theo năm học.

Thời gian nghỉ hằng năm của giảng viên là 06 tuần, của giảng viên được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo hoặc kiêm nhiệm công tác quản lý là 04 tuần. Thời gian nghỉ đã bao gồm nghỉ hè và nghỉ phép hằng năm theo quy định của Bộ Luật lao động, được hưởng nguyên lương và phụ cấp (nếu có);

Thời gian giảng dạy trong kế hoạch đào tạo được tính bằng giờ chuẩn, trong đó một tiết giảng lý thuyết là 45 phút hoặc 50 phút được tính bằng một giờ chuẩn.

Định mức giờ chuẩn của giảng viên trong một năm học được quy định từ 200 đến 400 giờ chuẩn; trong đó, giờ chuẩn trực tiếp trên lớp chiếm tối thiểu 50% định mức quy định.

Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học căn cứ vào tình hình thực tế của đơn vị; mục tiêu, chiến lược phát triển của nhà trường; đặc thù của môn học, ngành học để quyết định định mức giờ chuẩn của giảng viên trong một năm học cho phù hợp.

Giảng viên được bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo hoặc kiêm nhiệm công tác đảng, đoàn thể (trừ giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh) có nghĩa vụ giảng dạy tối thiểu theo định.

Giảng viên phải dành ít nhất 1/3 quỹ thời gian năm học để làm nghiên cứu - 1

Sinh viên ĐH Quốc gia Hà Nội trên giảng đường

Giảng viên phải hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học

Về nghiên cứu khoa học, dự thảo quy định, giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.

Mỗi năm, giảng viên phải hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được giao tương ứng với chức danh hoặc vị trí công việc đang đảm nhiệm.

Việc giao và triển khai thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cho giảng viên phải phù hợp với điều kiện, tiềm lực khoa học, chiến lược phát triển của cơ sở giáo dục đại học và phù hợp với năng lực chuyên môn của giảng viên.

Kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên được đánh giá thông qua các sản phẩm khoa học và công nghệ, các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.

Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cho giảng viên và quy định cụ thể về số giờ nghiên cứu khoa học được quy đổi từ sản phẩm khoa học và công nghệ, hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. 

Đối với những giảng viên không hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học theo quy định, Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học căn cứ mức độ, hoàn cảnh cụ thể để xem xét khi đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ trong năm học, xếp loại thi đua và giải quyết các chế độ, chính sách liên quan.

Trong một năm học, giảng viên giảng dạy, nghiên cứu khoa học, hoạt động chuyên môn và thực hiện các nhiệm vụ khác vượt định mức được hưởng chế độ làm việc vượt định mức theo quy định của pháp luật.

Thời gian làm việc vượt định mức của giảng viên hằng năm không được vượt quá thời gian theo quy định của Bộ luật lao động hiện hành.

Quy đổi các hoạt động chuyên môn ra giờ chuẩn

Một tiết giảng lý thuyết trên lớp cho tối đa 50 sinh viên được tính bằng 1,0 giờ chuẩn; một tiết giảng lý thuyết kết hợp làm mẫu ở thao trường, bãi tập môn học giáo dục quốc phòng và an ninh, một tiết giảng môn học giáo dục thể chất được tính bằng 1,0 giờ chuẩn.

Đối với lớp học có trên 50 sinh viên, tùy theo điều kiện làm việc cụ thể đối với từng lớp ở từng chuyên ngành khác nhau, một tiết giảng lý thuyết trên lớp có thể nhân hệ số khi tính giờ chuẩn nhưng không quá 2,0;

Một tiết giảng chuyên đề, giảng lý thuyết cho các lớp đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và một tiết giảng bằng tiếng nước ngoài đối với môn học không phải là môn ngoại ngữ được tính bằng 1,2 đến 2,0 giờ chuẩn.

Hồng Hạnh