Kỷ niệm 65 năm Ngày Nhân quyền thế giới:
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người với cách mạng Việt Nam
(Dân trí) - Năm nay kỷ niệm lần thứ 65 Ngày Nhân quyền thế giới (10/12/1948 - 10/12/2013) đối với nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh chính trị mới.
Đó là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016) và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi) vừa được công bố.
TTXVN trân trọng giới thiệu bài viết của TS. Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng, Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, nhân sự kiện này.
Quyền con người không chỉ là giá trị chung của nhân loại, mà còn là giá trị cốt lõi của các quốc gia, dân tộc, không phân biệt chế độ xã hội, trình độ phát triển, bản sắc văn hóa. Trong thời đại toàn cầu hóa, việc bảo đảm quyền con người được xem là thước đo trình độ phát triển, tính ưu việt của một chế độ. Quyền con người được xem là quyền tự nhiên, vốn có của mọi người. Thế nhưng các quyền này chỉ đến với người dân Việt Nam ta từ khi Cách mạng tháng Tám giành độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất đất nước thắng lợi. Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - Thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhìn từ lăng kính quyền con người, cũng có thể nói, Cách mạng tháng Tám đã mở ra thời đại quyền dân tộc tự quyết gắn liền với quyền công dân và quyền con người được xác lập trên đất nước ta.
Hơn 30 năm kháng chiến chống lại các thế lực xâm lược hung ác nhất thế giới, Dân tộc ta đã kiên cường đấu tranh trước hết để bảo vệ quyền sống, bảo vệ tự do, nhân phẩm của Dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - độc lập cho Dân tộc - tự do cho nhân dân. Tư tưởng này đã được cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn của thời đại ngày nay. Có thể nói, trong thế kỷ XX Việt Nam đã có những đóng góp lớn lao, mang tính đột phá về tư tưởng nhân quyền của nhân loại. Thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng do Đảng ta lãnh đạo.
Sự ra đời của khái niệm quyền con người gắn liền với các cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xã hội thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Mở đầu là ở Anh rồi đến Mỹ, Pháp... Thế nhưng, các thế lực cầm quyền ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa đã không hề chia sẻ những thành quả nhân quyền với các dân tộc bị áp bức. Ở Việt Nam, hơn 80 năm áp đặt chế độ thống trị, thực dân Pháp vẫn duy trì chế độ phong kiến thối nát; dân tộc ta không có Hiến pháp, không có quyền công dân, quyền con người. Đó là một bằng chứng không gì có thể bác bỏ được.
Trong thế kỷ XX, sự ra đời của Liên hợp quốc, năm 1945 đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại. Mặc dù các quốc gia, dân tộc vẫn còn có sự khác biệt và mâu thuẫn về hệ tư tưởng, chính trị, kinh tế, song từ đây các quốc gia, dân tộc đã có thể giải quyết các bất đồng và hợp tác với nhau dựa trên nguyên tắc: bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình. Cũng trong văn kiện lịch sử này, quyền con người được xem là một mục tiêu, một trong ba trụ cột của Hiến chương Liên hợp quốc.
Bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người ra đời không phải là sáng kiến của cá nhân, một nhóm xã hội nào đó, mà là một nỗ lực chung của các dân tộc, trong đó có Liên-Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, sau cuộc chiến tranh chống Phát xít, hướng tới mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người hình thành từ những tiền đề tư tưởng trước đó, song quan trọng hơn nó đã phản ánh nhận thức chính trị của cộng đồng quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc chiến tranh này đã cướp đi gần 50 triệu sinh mạng. Ở nước ta, do chính sách tàn bạo phá lúa trồng đay phục vụ chiến tranh của phát xít Nhật và sự bóc lột dã man thực dân Pháp, nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử đã diễn ra làm chết hơn 2 triệu người ở Bắc bộ, gần bằng 1/10 dân số Việt Nam lúc đó.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã làm thức tỉnh nhân loại về nhiệm vụ bảo vệ hòa bình, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và bảo vệ quyền con người, trước hết là quyền sống còn là một nhu cầu cấp bách của các dân tộc. Sau hai năm nghiên cứu, biên soạn bởi chũng chuyên gia pháp lý hàng đầu của 8 quốc gia, đại diện cho nhiều khu vực trên thế giới, ngày 10/12/1948, Bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua.
Tuyên ngôn, ngoài Lời nói đầu, bao gồm 30 điều, đã đề cập tới hầu hết các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Tuyên ngôn không chỉ chọn lọc kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại mà còn đề cập tới những vấn đề mang tính thách thức đối với các hệ thống xã hội vào thời điểm đó, chẳng hạn như quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo; quyền tự do hội họp, lập hội; quyền được tham gia vào việc quản lý đất nước… là những nhu cầu bức thiết của đại bộ phận dân chúng vẫn chưa được đáp ứng ngay cả ở những nước tư bản phát triển nhất. Các quyền về kinh tế, xã hội về văn hóa như quyền làm việc, bao gồm quyền được bảo vệ, chống lại thất nghiệp; quyền được giáo dục… được xem là những ưu thế của hệ thống xã hội chủ nghĩa… sau nhiều cuộc tranh luận, rút cuộc đã được đưa vào văn kiện này.
Có thể nói Tuyên ngôn đã thể hiện ý chí, nguyện vọng cháy bỏng của các quốc gia, dân tộc về một cuộc sống, trong đó tự do, nhân phẩm của tất cả mọi người phải được các Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và thực thi một bình đẳng đối với mọi người, không phân biệt chủng tộc, mầu da, giới tính, quan điểm chính trị, vị thế xã hội, giầu nghèo...Sau Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, hai công ước quốc tế: “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị”, “Công ước về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa” (năm 1966) đã ra đời. Ba văn kiện nói trên được cộng đồng quốc xem là “Bộ luật quốc tế về quyền con người”.
Mặc dù còn những hạn chế bởi điều kiện lịch sử ra đời, đến nay văn kiện này vẫn còn nguyên giá trị. Đó chính là lý do vì sao, cộng đồng quốc tế đã lấy ngày ra đời của Bản Tuyên ngôn này làm “Ngày nhân quyền thế giới”.
Đối với dân tộc ta, những tư tưởng Nhân đạo, khoan dung, bảo vệ con người trong Tuyên ngôn không phải là xa lại. Đó là một phần trong các giá trị truyền thống của dân tộc ta. Có thể xem tư tưởng “Thương người như thể thương thân” trong văn học dân gian; tư tưởng “Khoan sức dân” của Trần Quốc Tuấn, tư tưởng “Lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn”, “Lấy chí nhân để thay cường bạo” của Lê Lợi - Nguyễn Trãi và nhiều quy định bảo vệ lợi ích của phụ nữ, trẻ em...trong bộ luật Hồng Đức, thời Lê Thánh Tông, năm 1449... là những minh chứng.
Đổi mới là một thời kỳ đặc biệt của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Đó là thời kỳ Đảng ta sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, nhận thức lại chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó có chế độ dân chủ và quyền con người. Bản lĩnh của Đảng ta đã thể hiện rõ trong bước ngoặt lịch sử này. Đảng ta chủ trương chọn lọc - kế thừa các giá trị của nền văn minh nhân loại, trong đó kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, dân chủ và quyền con người. Trên lĩnh vực chính trị, lần đầu tiên quyền con người đã được đưa vào Cương lĩnh của Đảng (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh 2011). Đồng thời cũng đã được quy định tại Điều 50, Hiến pháp 1992. Cho đến nay, sau khi Việt Nam đã ký kết “Công ước tra tấn”, có thể nói Nhà nước ta đã tham gia tất cả các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người. Đồng thời hệ thống pháp luật Việt Nam đã bao quát đầy đủ các quyền Dân sự, Chính trị, Kinh tế, Xã hội, Văn hoá và tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Có thể nói Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp mới) đánh dấu một bước phát triển to lớn trên lĩnh vực quyền con người. So với Hiến pháp 1992 sửa đổi, Hiến pháp mới đã có những thay đổi to lớn về cả hai phương diện - nội dung và kỹ thuật lập pháp. Nếu như quyền con người trong Hiến pháp 1992 sửa đổi chỉ có một điều (Điều 50) quy định về quyền con người, được đặt trong Chương V “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, thì Hiến pháp mới đã giành một chương (Chương II), quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Tầm quan trọng của quyền con người không chỉ được được thể hiện ở vị trí của chương này (Chương II) mà còn thể hiện ở số lượng các Điều (37 Điều/124 Điều, trên 30% Điều của Hiến pháp mới). Trong chương này, tất cả các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được quy định đầy đủ và tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người. Về kỹ thuật lập pháp, gắn với tư duy mới về quyền con người cũng đã được thể hiện rõ ràng. Điều 15 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Nói một cách cụ thể, các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư, Nghị quyết...không có hiệu lực pháp lý để giới hạn quyền con người.
Không phủ nhận rằng hiện nay Việt Nam đang phải đối diện với không ít những vấn đề về quyền con người, như sự phân hóa giầu nghèo; tình trạng quan liêu, tham nhũng; tình trạng người dân không được hưởng các hàng hóa, dịch vụ tương xứng với chất lượng và giá cả…tuy nhiên với việc nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,...và việc hoàn thiện nền Dân chủ xã hội chủ nghĩa với Hiến pháp mới các quyền và tự do cơ bản của con người trên đất nước ta nhất định sẽ được bảo đảm ngày càng tốt hơn, chế độ xã hội ta, Nhà nước ta sẽ ngày càng vững mạnh hơn.
TTXVN