45 năm quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia
(Dân trí) - Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng gần gũi, có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, nhân dân hai nước là anh em gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi.
Thiên nhiên nhân hậu đã cho dòng sông Mê Công chảy qua hai nước, tưới mát cho những cánh đồng lúa bát ngát dọc đôi bờ, mang cá tôm nuôi dưỡng con người, làm nên cuộc sống trù phú của nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia. Dòng Mê Công cũng chứng kiến mối tình hữu nghị đoàn kết keo sơn giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia ngày càng phát triển.
Ngược dòng thời gian 45 năm trước, ngày 24/6/1967 đã đánh dấu sự kiện quan trọng hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, khi nhân dân Việt Nam còn đang trong giai đoạn đấu tranh khốc liệt chống giặc ngoại xâm. Đây là sự ủng hộ có ý nghĩa cao cả của Campuchia đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự kiện này cũng khẳng định sự ủng hộ chân tình của nhân dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, nền trung lập của Vương Quốc Campuchia do Cựu Quốc Vương Norodom Shihanouk đứng đầu. Chào mừng sự kiện có ý nghĩa quan trọng này, trong chuyến thăm hữu nghị cấp nhà nước tới Campuchia từ ngày 6-8/12/2011 của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí lấy năm 2012 là Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia. Các cấp, các ngành, các địa phương và nhân dân hai nước đã tích cực hưởng ứng năm hữu nghị, đã và đang tổ chức nhiều hoạt động phong phú, thiết thực, đặc biệt là Lễ Mít tinh trọng thể kỷ niệm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước.
45 năm kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao là thời kỳ lịch sử đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Campuchia, khi nhân dân hai nước anh em đã đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì quyền được sống trong tự do, hạnh phúc và xây dựng đất nước phồn vinh.
Sau những năm tháng cùng kề vai sát cánh, đồng cam, cộng khổ bên nhau tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ chống thực dân, đế quốc, lẽ ra nhân dân hai nước cùng được hưởng hòa bình để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng tập đoàn Pôn Pốt đã tiến hành chính sách diệt chủng tàn khốc, giết hại hàng triệu người dân Campuchia, xoá bỏ đến tận gốc mọi cơ sở xã hội, đẩy dân tộc Campuchia vào thảm họa bị diệt chủng. Tập đoàn Pôn Pốt còn tiến hành cuộc chiến tranh đẫm máu, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam, gây nên những tội ác tày trời đối với nhân dân Việt Nam. Trước tình hình đất nước Campuchia nguy vong, các lực lượng cách mạng yêu nước chân chính của Campuchia đã vùng dậy, lập nên Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia để tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang chống lại bè lũ diệt chủng. Đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia, đồng thời cũng để thực hiện quyền tự vệ chính đáng bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của mình, các chiến sỹ Quân tình nguyện Việt Nam đã không quản hy sinh, sát cánh cùng Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia tiến hành cuộc chiến tranh tự vệ thần tốc, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, đưa đến thắng lợi ngày 7/1/1979 của Cách mạng Campuchia. Với thắng lợi lịch sử này, nhân dân Campuchia đã khép lại một trang sử đen tối, đau thương của dân tộc mình, thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc và mở ra kỷ nguyên độc lập, hoà bình, tự do và phát triển cho đất nước Campuchia, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước phát triển lên một giai đoạn mới, gắn bó, tin cậy lẫn nhau. Sau sứ mệnh lịch sử vô tư, trong sáng, nhiều Đoàn chuyên gia và Quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả của mình đối với nhân dân Campuchia và về nước.
Sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991 và cuộc Tổng tuyển cử năm 1993, quan hệ hai nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Với phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”, trong những năm qua, quan hệ hai nước đã không ngừng được củng cố và phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực, mang lại hiệu quả thiết thực cho nhân dân hai nước.
Hai bên tiếp tục duy trì truyền thống trao đổi các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội cũng như giữa các bộ, ngành, địa phương và giao lưu nhân dân. Qua các chuyến thăm, Lãnh đạo cấp cao hai nước đều khẳng định quyết tâm cùng nhau vun đắp cho mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống, hợp tác tốt đẹp giữa hai nước và coi đây là nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Chuyến thăm Việt Nam của Quốc vương Norodom Sihamoni tháng 6/2010 cũng như chuyến thăm Campuchia của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 8/2010 và đặc biệt chuyến thăm hữu nghị Nhà nước Campuchia mới đây của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (6-8/12/2011) có ý nghĩa to lớn, đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới, thắt chặt quan hệ láng giềng tốt đẹp, tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Trong dịp này, Thái Thượng hoàng Norodom Shihanouk đã nói rằng “Campuchia và Việt Nam là hai nước không thể tách rời, mối quan hệ quý báu giữa hai nước cần được phát huy trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước”.
Hợp tác chặt chẽ giữa hai nước được thực hiện qua các cơ chế như Uỷ ban Hỗn hợp về Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, Hội nghị Hợp tác Phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia, Hội nghị Xúc tiến Đầu tư được tổ chức hàng năm, đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt, một số tỉnh thành của hai nước tuy không có chung biên giới, nhưng cũng tích cực thúc đẩy quan hệ kết nghĩa, ký các thỏa thuận hợp tác, điển hình như các cặp quan hệ Thành phố Hồ Chí Minh - Phnom Penh, Hải Phòng - Sihanouk Ville và gần đây có thêm nhiều tỉnh thành của hai nước đang đi theo hướng hợp tác tích cực này.
Hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước cũng đã phát triển nhanh chóng. Năm 1997-1999, kim ngạch thương mại hai chiều mới chỉ đạt khoảng 130-150 triệu USD/năm, nhưng từ năm 2005, kim ngạch thương mại hai nước tăng trung bình khoảng 30-40%/năm. Cụ thể là năm 2007 đạt hơn 1,2 tỷ USD, năm 2008 đạt 1,6 tỷ USD, năm 2009 đạt 1,33 tỷ USD, năm 2010 đạt 1,8 tỷ USD, năm 2011 đạt 2,8 tỷ USD. Hai nước phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai chiều đạt 5 tỷ USD trong 5 năm tới. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 100 dự án được cấp phép đầu tư tại Campuchia với tổng số vốn trên 2,2 tỷ USD, tập trung trên các lĩnh vực viễn thông, ngân hàng, năng lượng, trồng cây cao su, chế biến nông sản.
Cùng với sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ chung giữa hai nước, các cơ quan, lực lượng chức năng và các địa phương biên giới Việt Nam và Campuchia đã và đang tích cực phối hợp chặt chẽ triển khai công tác phân giới cắm mốc biên giới trên bộ để sớm hoàn thành công tác này theo tinh thần chỉ đạo củaLlãnh đạo cấp cao hai nước. Việc Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia Samdech Techo Hun Sen cùng dự Lễ Khánh thành cấp nhà nước cột mốc số 314, cột mốc cuối cùng trên đường biên giới trên bộ (thuộc tỉnh Kiên Giang của Việt Nam và tỉnh Kam Pốt của Campuchia) vào đúng ngày kỷ niệm 45 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Campuchia (24/6/2012) thể hiện quyết tâm cao của Lãnh đạo và lòng mong muốn của nhân dân hai nước trong việc xây dựng đường biên giới Việt Nam - Campuchia thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững.
Quan hệ giữa Mặt trận, Hội phụ nữ, tổ chức thanh niên, Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị, Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia cũng ngày càng được tăng cường với nhiều nội dung hoạt động thiết thực, góp phần vào việc nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, qua đó góp sức vào việc giữ gìn, vun đắp cho quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Hai nước vẫn dành cho kiều dân của nhau nhiều thuận lợi nhằm ổn định cuộc sống, tạo điều kiện bình đẳng cho họ tham gia đóng góp nhiều hơn nữa vào công cuộc xây dựng đất nước nơi họ sinh sống. Giao lưu nhân dân, nhất là ngành du lịch giữa hai nước ngày càng phát triển. Năm 2011, Việt Nam trở thành nước đứng đầu về lượng du khách đến Campuchia với số lượng khoảng 600.000 lượt người.
Hợp tác về giáo dục đào tạo vẫn luôn là ưu tiên cao trong quan hệ giữa hai nước. Hàng năm, Việt Nam và Campuchia vẫn dành cho nhau hàng trăm suất học bổng dài hạn và ngắn hạn cho sinh viên, nghiên cứu sinh, cán bộ của các bộ, ngành và địa phương của hai nước. Trong lĩnh vực y tế, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng ngành y tế Việt Nam vẫn dành cho người dân Campuchia sống dọc biên giới Việt Nam được hưởng chế độ khám chữa bệnh ưu đãi như đối với người Việt Nam. Ngoài ra ngành y tế còn thường xuyên cử các đoàn bác sỹ Việt Nam sang khám, mổ mắt miễn phí cho người Campuchia. Đó là những việc làm cụ thể, rất có ý nghĩa của tình hữu nghị giữa hai nước láng giềng anh em. Bên cạnh đó, các hoạt động giao lưu văn hóa, trong đó có việc tổ chức “Tuần Văn hóa” của hai nước theo hình thức luân phiên thường niên đã phát huy vai trò là “cầu nối” giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước.
Không chỉ trong khuôn khổ song phương, hai nước cũng ngày càng hợp tác, gắn bó và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như hợp tác ba nước Campuchia – Lào - Việt Nam (CLV), hợp tác bốn nước Campuchia – Lào – Myanmar - Việt Nam (CLMV), Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong(ACMECs), Hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ASEM, Liên Hợp Quốc (UN)... Hiện nay, Campuchia đang đảm đương vai trò là Chủ tịch ASEAN năm 2012, Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ và chân thành chúc Campuchia hoàn thành trọng trách của mình. Bên cạnh đó, quan hệ hợp tác giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam và Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế Campuchia cũng có những bước phát triển tích cực. Hai bộ vừa tiến hành Cuộc Giao lưu lần thứ 3 và thỏa thuận sẽ tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp này.
Với lịch sử giàu truyền thống đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau vô tư, trong sáng như vậy, quan hệ hai nước sẽ có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tầm cao mới. Điều thuận lợi cơ bản là nhân dân hai nước trải qua thăng trầm của lịch sử đã kề vai sát cánh bên nhau trên tinh thần tin cậy. Lãnh đạo cấp cao hai nước khẳng định quyết tâm tiếp tục cùng nhau vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam - Campuchia phát triển nhằm mang lại lợi ích cho nhân dân hai nước. Sự trao đổi thường xuyên các chuyến thăm của Lãnh đạo cấp cao hai nước đã tạo tiền đề và đường lối đúng đắn cho mối quan hệ giữa các cấp, các ngành, địa phương và nhân dân hai nước. Các cơ chế hợp tác đa dạng góp phần đưa quan hệ hữu nghị giữa hai nước phát triển theo hướng tích cực, hiệu quả, phù hợp với lợi ích của hai nước. Chính vì lẽ đó, hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước đang phát triển thuận lợi. Những chính sách ưu đãi về thương mại, đầu tư hỗ trợ mạnh mẽ mối quan hệ buôn bán và đầu tư giữa hai nước. Các dự án cơ sở hạ tầng, kết nối giao thông, hệ thống chợ biên giới… đang được triển khai sẽ là nền tảng quan trọng cho việc phát triển kinh tế vùng biên giới hai nước nói riêng và tăng cường hợp tác về kinh tế giữa hai nước nói chung. Nền văn hóa đặc sắc của hai nước đã là động lực mạnh mẽ cho giao lưu giữa nhân dân hai nước trong thời gian tới. Số lượng du lịch của Việt Nam tới Campuchia gia tăng sẽ góp phần thúc đẩy ngành du lịch của đất nước bạn Campuchia phát triển hơn nữa. Trên cơ sở những thuận lợi cơ bản đó và với quyết tâm của Lãnh đạo cấp cao, sự nỗ lực của các Bộ, ngành, địa phương và nhân dân hai nước, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa Việt Nam và Campuchia sẽ tiếp tục phát triển lên tầm cao mới, mang lại những lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới.