Chung cư tăng giá sốc, có nên mua căn hộ chưa có sổ hồng?

Ninh An

(Dân trí) - Chung cư chưa có sổ hồng vẫn có thể được giao dịch mua bán. Tuy nhiên, người mua cần lưu ý kỹ các vấn đề pháp lý và rủi ro liên quan.

Chưa có sổ hồng, chung cư có được giao dịch?

Số liệu báo cáo thị trường bất động sản quý III của một số đơn vị nghiên cứu thị trường hầu hết đều thống nhất mức giá bán trung bình chung cư mới tại Hà Nội đã đạt 64-69 triệu đồng/m2. Giá chung cư cũ đạt mức 46-51 triệu đồng/m2.

Đáng chú ý, các căn hộ mới có giá trên 4 tỷ đồng chiếm đến 70% tổng lượng căn hộ bán ra. Phân khúc căn hộ giá dưới 2 tỷ đồng gần như biến mất khỏi thị trường.

Chung cư tăng giá khiến không ít người chuyển hướng sang mua những căn hộ chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở (gọi tắt là sổ hồng) bởi giá bán thường thấp hơn so với chung cư đã có sổ. Câu hỏi đặt ra là liệu mua bán trong trường hợp này có hợp pháp không?

Điểm a Khoản 1 Điều 160 Luật Nhà ở năm 2023 quy định điều kiện giao dịch về mua bán, thuê mua, tặng cho, đổi, thế chấp, góp vốn bằng nhà ở thì nhà ở phải có đủ điều kiện trong đó có Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 160 Luật Nhà ở 2023 được hướng dẫn bởi Nghị định 95/2024 bao gồm:

- Mua bán, thuê mua, thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai; bán nhà ở trong trường hợp giải thể, phá sản;

- Tổ chức tặng, cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết;

- Mua bán, thuê mua nhà ở có sẵn của chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở trong các trường hợp: Nhà ở thuộc tài sản công; Nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân, nhà ở phục vụ tái định cư không thuộc tài sản công;

- Cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở;

- Nhận thừa kế nhà ở.

Như vậy, với chung cư chưa có sổ hồng, các bên hoàn toàn có thể mua bán.

Chung cư tăng giá sốc, có nên mua căn hộ chưa có sổ hồng? - 1

Một dự án chung cư tại Hà Nội (Ảnh: Trần Kháng).

Những vấn đề pháp lý cần chú ý

Điều 8 Nghị định 95/2024 quy định rõ các giấy tờ chứng minh điều kiện nhà ở tham gia giao dịch khi chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu. 

Đối với giao dịch mua bán, thuê mua nhà ở trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, thì phải có các giấy tờ chứng minh nhà ở đủ điều kiện đưa vào kinh doanh đối với trường hợp nhà tái định cư, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân.

Những nhà ở dạng này phải có giấy tờ chứng minh đủ điều kiện được đưa vào kinh doanh hoặc giấy tờ nghiệm thu đưa vào sử dụng, giấy tờ chứng minh đủ điều kiện được giao dịch theo quy định của pháp luật về phát triển và quản lý nhà ở xã hội.

Đối với giao dịch mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai không thuộc dự án thì phải có giấy tờ chứng nhận về quyền sử dụng đất và giấy phép xây dựng trong trường hợp phải có giấy phép xây dựng hoặc phải có giấy tờ chứng minh về việc đầu tư xây dựng nhà ở.

Đối với giao dịch mua bán, thuê nhà ở thuộc tài sản công thì phải có giấy tờ xác định nhà ở thuộc diện được thuê, bán theo quy định tại Điều 63, Điều 69 của Nghị định 95/2024.

Đối với giao dịch tặng, cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết thì tổ chức tặng, cho phải có giấy tờ chứng minh về việc xây dựng nhà ở để tặng cho.

Nếu nhà ở thừa kế thuộc diện mua, thuê mua thì phải có hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở hợp pháp kèm theo giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu nhà ở hoặc chứng minh việc đầu tư xây dựng nhà ở của bên bán, bên cho thuê mua.

Đối với giao dịch bán nhà ở của tổ chức bị giải thể, phá sản thì phải có nghị quyết, quyết định giải thể của tổ chức đó hoặc văn bản thông báo của cơ quan có thẩm quyền về việc giải thể tổ chức đang có sở hữu nhà ở. Trường hợp phá sản thì phải có quyết định của Tòa án nhân dân tuyên bố về việc phá sản đối với tổ chức đang sở hữu nhà ở đó.

Tuy nhiên, khi mua căn hộ chung cư chưa có sổ hồng, người mua có thể đối mặt nhiều rủi ro. Trong đó, rủi ro lớn nhất là người dân sẽ không được Nhà nước công nhận quyền sở hữu hợp pháp căn hộ và quyền sử dụng đất gắn liền với dự án chung cư đó.

Một rủi ro khác là nếu thỏa thuận dưới hình thức hợp đồng ủy quyền quản lý sử dụng (có công chứng), có nghĩa là từ người chủ thứ cấp (thứ hai trở đi) chỉ được ủy quyền sử dụng căn hộ. Khi đó nếu cấp sổ đỏ thì người chủ đầu tiên mới là người đứng tên trên giấy tờ. Chủ đầu tiên có thể không hợp tác sang tên cho chủ mới nhằm đòi tăng giá.

Vì vậy, khi xảy ra các tranh chấp liên quan đến tài sản này sẽ không được pháp luật bảo vệ. Trong thời gian tài sản chưa có sổ, người mua cũng không thể vay tiền ngân hàng bằng cách thế chấp căn hộ.