Hiện hữu nỗi lo trên gỡ dưới siết tín dụng
(Dân trí) - Theo đánh giá của HoREA, Thông tư 06/2023/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước có điều khoản chưa thống nhất với Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Đầu tư và Luật Kinh doanh bất động sản.
Điều này tác động tiêu cực đến đầu tư phát triển, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài.
Mới đây, Hiệp hội Bất động sản TP HCM (HoREA) đã có văn bản do Chủ tịch Lê Hoàng Châu ký ngày 16/7/2023 kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét sửa đổi Thông tư 06/2023/TT-NHNN, Thông tư 03/2023/TT-NHNN và Thông tư 08/2020/TT-NHNN để thực hiện Nghị quyết 97/NQ-CP ngày 08/07/2023 của Chính phủ.
HoREA đã phân tích những bất cập của Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 06/2023/TT-NHNN bổ sung khoản 9 Điều 8 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.
Điều khoản này quy định tổ chức tín dụng không được cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án đầu tư không đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật tại thời điểm tổ chức tín dụng quyết định cho vay.
Chưa đồng bộ, thống nhất với Bộ Luật Dân sự, Luật Đầu tư
HoREA đánh giá Khoản 9 Điều 8 Thông tư 39/2016/TT-NHNN (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 1 Thông tư 06/2023/TT-NHNN) chưa đồng bộ, chưa thống nhất với một số quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 tại khoản 2 Điều 3 quy định: "Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng", hoặc khoản 1 Điều 504 quy định "Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm".
Điều khoản này cũng chưa đồng bộ, chưa thống nhất với khoản 2 Điều 21 và Điều 24 Luật Đầu tư 2020 quy định "đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp", mà "đầu tư theo hình thức góp vốn" là 01 hình thức "hợp đồng hợp tác" theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015.
"Hiệp hội nhận thấy, với các quy định trên đây của Bộ Luật Dân sự 2015 và Luật Đầu tư 2020 thì việc cá nhân, pháp nhân "góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh" tại mọi giai đoạn thực hiện dự án đều hợp pháp, nên Hiệp hội đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét cho phép tổ chức tín dụng được cho vay "để góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh" và phải có tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về tín dụng", HoREA khẳng định.
Tuy nhiên, để kiểm soát rủi ro, HoREA đề nghị Ngân hàng Nhà nước quy định tổ chức tín dụng có trách nhiệm quy định cụ thể việc cho vay theo tình trạng pháp lý của từng dự án. Ví dụ, Dự án A đã có "quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư" thì tổ chức tín dụng có thể cho vay với tỷ lệ không quá 30% tổng mức đầu tư; hoặc Dự án B đã có "Giấy phép xây dựng" thì tổ chức tín dụng có thể cho vay với tỷ lệ không quá 50% tổng mức đầu tư…
Chưa đồng bộ, thống nhất với Luật Kinh doanh bất động sản
Không chỉ vậy, HoREA còn khẳng định điều khoản kể trên cũng chưa đồng bộ, thống nhất với Điều 55 và Điều 57 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định phải đảm bảo "điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh" thì mới được giao dịch và thực hiện "thanh toán trong mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai".
Bởi lẽ, sau khi chủ đầu tư đã bỏ ra một khoản tiền rất lớn để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của dự án và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền "chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp phép xây dựng" thì đây là thời điểm mà chủ đầu tư có nhu cầu vay vốn tín dụng để đầu tư xây dựng các hạng mục công trình của dự án và tại thời điểm này thì dự án đã có đủ pháp lý thuộc "giai đoạn thực hiện dự án", nhưng "chưa đủ điều kiện đưa vào kinh doanh", chưa được huy động vốn của khách hàng.
Nếu dự án "đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh" thì chủ đầu tư "không dại gì" đi vay tín dụng ngân hàng với lãi suất cao, bởi lẽ tại thời điểm này thì chủ đầu tư đã được phép "mua bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai", được huy động vốn từ khách hàng là nguồn vốn "rẻ nhất, hiệu quả nhất" do không bị áp lực phải trả lãi, trả vốn gốc, mà chỉ cần sớm hoàn thành dự án để bàn giao nhà cho khách hàng.
Tác động tiêu cực đến đầu tư phát triển
HoREA nhận định quy định cấm cho vay của Khoản 9 Điều 8 Thông tư 39/2016/TT-NHNN (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 1 Thông tư 06/2023/TT-NHNN) không chỉ tác động đến hoạt động kinh doanh bất động sản thuộc "ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện", mà còn tác động "tiêu cực" đến đầu tư phát triển nói chung vì áp dụng đối với mọi dự án đầu tư.
Theo HoREA, số dự án đầu tư khác cũng sẽ bị rơi vào trường hợp bị cấm cho vay, như các dự án đầu tư theo phương thức PPP thực hiện các công trình hạ tầng, cầu đường, cảng, sân bay, nhà máy phát điện, bệnh viện, trường học, nông, lâm, ngư nghiệp…
Bởi lẽ, khi các dự án PPP này đã đủ điều kiện đưa vào kinh doanh cũng là lúc mà dự án đã hoàn thành thì chủ đầu tư sẽ có nguồn thu từ dự án, ví dụ như dự án đầu tư nguồn phát điện sau khi đã hoàn công, đấu nối, phát thử nghiệm, đã có giá bán điện, thì tại thời điểm này các chủ đầu tư không còn nhu cầu huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư nữa.
Do vậy, doanh nghiệp sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là chủ đầu tư dự án PPP thì đã có đủ pháp lý và tại thời điểm này mới phát sinh nhu cầu huy động vốn để bù đắp tài chính cho các khoản đầu tư thực hiện dự án, hoặc có nhu cầu tìm "bên thứ 3" để mời góp vốn, hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án. Nhưng, khoản 9 Điều 8 Thông tư 39/2016/TT-NHNN (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 1 Thông tư 06/2023/TT-NHNN) lại quy định tổ chức tín dụng không được cho vay đối với "bên thứ 3".
Điều cấm này dẫn đến vấn đề là chủ đầu tư phải có đủ nguồn vốn đầu tư hoặc có khả năng tự mình vay vốn để thực hiện dự án, hoặc tìm được "bên thứ 3" có đủ năng lực hoặc có thể huy động vốn của nước ngoài để có thể tham gia góp vốn, hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh phát triển dự án. Vậy nên có thể thấy rõ với điều cấm này thì khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp trong nước không nhiều, nhưng lại tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài do có lợi thế "nguồn vốn rẻ".
Do vậy, HoREA khẳng định Khoản 9 Điều 8 Thông tư 39/2016/TT-NHNN (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 1 Thông tư 06/2023/TT-NHNN) chưa tạo điều kiện cho chủ đầu tư dự án bất động sản được hợp tác với các nhà đầu tư do khoản 9 Điều 8 không cho phép nhà đầu tư vay vốn tín dụng "để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án đầu tư" trong giai đoạn dự án đang triển khai đầu tư xây dựng nhưng "chưa đủ điều kiện đưa vào kinh doanh"; mặc dù dự án đã có đầy đủ pháp lý như "quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư" hoặc "Giấy phép xây dựng"… và đây cũng là thời điểm mà chủ đầu tư có nhu cầu hợp tác với nhà đầu tư thứ cấp để được bổ sung vốn, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro.
Thông tư "cấm nhầm"
Sau kiến nghị của HoREA, NHNN đã lý giải quy định bổ sung không được cho vay vốn với một số nhu cầu vốn cụ thể tại Thông tư 06.
"Thực tiễn thời gian qua cho thấy việc cho vay đối với các nhu cầu vốn này để thực hiện dự án, mà dự án lại không đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật tiềm ẩn rủi ro", NHNN cho biết.
Với giải thích của NHNN, dường như Khoản 9 Điều 8 Thông tư 39/2016/TT-NHNN (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 1 Thông tư 06/2023/TT-NHNN) đang "cấm nhầm" đối tượng.
Cụ thể, ông Lê Hoàng Châu cho rằng NHNN đang không hiểu rằng dự án bất động sản không đủ điều kiện kinh doanh và dự án bất động sản không đủ điều kiện pháp lý là khác nhau.
Theo ông Lê Hoàng Châu, dự án bất động sản khi tạo lập được quỹ, được chấp thuận chủ trương đầu tư thì có nghĩa doanh nghiệp được công nhận chủ đầu tư vì có đất. Dự án có thêm giấy phép xây dựng nữa thì rất tốt. Cái đó là đủ điều kiện pháp lý của dự án nhưng chưa đủ điều kiện kinh doanh.
"Lúc này, chủ đầu tư cần vay vốn thì lại cấm cho vay là sao? Doanh nghiệp đã có dự án, có tài sản đảm bảo, chứng minh được khả năng trả nợ. Tại sao không cho vay?", ông Lê Hoàng Châu đặt câu hỏi.
"Còn đối với một dự án do Nhà nước giao cho chủ đầu tư, thời gian đầu là rất cần vốn đầu tư. Nói vay lúc này không rủi ro là không đúng. Tôi thừa nhận bất cứ hoạt động kinh doanh nào cũng có rủi ro nhưng vấn đề là rủi ro ở mức độ nào. Dự án đã hình thành nghĩa là có đất, chủ đầu tư đã bỏ ra cả đống tiền", ông Lê Hoàng Châu phân tích câu chuyện rủi ro của dự án.