Ký ức của người lính trở về nơi mình... hy sinh
(Dân trí) - Là người duy nhất của trung đội còn sống sót sau trận đánh đẫm máu với quân thù, ít ai biết, phía sau sự trở về của người lính Vũ Quang Thành là cả một câu chuyện dài đầy máu, nước mắt…
Hàng chục năm qua đi, những vết thương chiến tranh vẫn nhói đau mỗi khi trái gió trở trời. Hơn nữa, có một nỗi đau khác vẫn âm thầm gặm nhấm người cựu chiến binh Vũ Quang Thành (xã Vĩnh Phúc, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) là việc 19 đồng đội trong đơn vị của ông đã nằm xuống, chỉ có ông là người duy nhất sống sót trở về.
Trung đội Mai Quốc Ca "1 thắng 100"
Tháng 5/1971, chàng trai làng Đồng Minh ở cạnh Thành Nhà Hồ tròn 18 tuổi, tình nguyện lên đường nhập ngũ.
Anh xung phong vào đội hình của Trung đoàn 14, thuộc Tỉnh đội Thanh Hóa, là lực lượng bổ sung cho đơn vị chủ lực Sư đoàn 304A.
Trung đội của người lính trẻ Vũ Quang Thành khi ấy mang tên Trung đội Mai Quốc Ca. Trung đội gồm 20 tay súng là những trai tráng quả cảm, ngùn ngụt nhiệt huyết do Mai Quốc Ca - chàng trai quê ở xã Hà Hải, huyện Hà Trung, Thanh Hóa làm Trung đội trưởng.
Sau những ngày rèn, tập trên thao trường ở Như Xuân (Thanh Hóa) và đất Bố Trạch (Quảng Bình), đầu năm 1972, Trung đội Mai Quốc Ca tiến vào mặt trận Quảng Trị. Nhiệm vụ đầu tiên của trung đội là vận chuyển nhu yếu phẩm, vũ khí, đạn dược cho tiểu đoàn đánh vào các căn cứ vùng giáp ranh tại Đầu Mầu, núi Kiến (Quảng Trị).
Trong dòng hồi ức, ông Thành nhớ lại, vào đêm 9/4/1972, Trung đội Mai Quốc Ca nhận nhiệm vụ vận chuyển 100kg thuốc nổ TNT để đánh sập cầu Quảng Trị (nay là cầu Thạch Hãn), chặn quân tiếp viện của địch từ thị xã Quảng Trị lên ứng cứu cho Đông Hà, Ái Tử - 2 (căn cứ quân sự lớn của địch tại vùng chiến thuật I).
Mục tiêu của việc đánh sập cầu là để tạo điều kiện để các cánh quân của ta mai phục sẵn ở hai bờ sông Thạch Hãn và các vùng phụ cận tiêu diệt lực lượng địch tại chiến trường Quảng Trị.
"Rạng sáng ngày 10/4/1972, tiểu đội đầu tiên của Trung đội xuất kích, đến gần cầu Thạch Hãn thì vướng phải mìn của địch. Mục tiêu bị lộ, địch hốt hoảng khi thấy bộ đội chủ lực của ta xuất hiện ngay bên Thành cổ Quảng Trị. Quân địch khẩn cấp điều cùng lúc 3 tiểu đoàn lính tinh nhuệ, gồm lính dù, biệt động và thủy quân lục chiến, huy động máy bay, pháo binh, xe tăng yểm trợ, tạo thành một gọng kìm bao vây Trung đội Mai Quốc Ca. Chúng tôi nằm giữa vòng vây của địch", ông Thành nhớ lại.
Ông bảo, anh em vẫn động viên nhau cố hết sức mình phá vòng vây. Dưới sự chỉ huy bình tĩnh, mưu trí của Trung đội trưởng Mai Quốc Ca, các chiến sĩ vừa anh dũng đánh trả nhiều đợt tấn công, tận dụng địa thế, người trước xông pha, người sau yểm trợ; anh em tỏa ra các hướng chiến đấu độc lập, kiên quyết bám trụ, đánh địch đến cùng.
Người này hy sinh, người khác xông lên chiến đấu. Thế trận giằng co quyết liệt từ 4h sáng đến 17h chiều. Cả Trung đội chiến đấu đến không còn viên đạn nào.
"Do chênh lệch lực lượng quá lớn, đến quá trưa ngày 10/4/1972, hầu hết các chiến sĩ của Trung đội lần lượt hy sinh", ông Thành nghẹn ngào.
Ông Thành bị thương, ngất đi không biết gì cho đến khi tỉnh lại thì đã thấy được ném lên xe của địch và đưa vào bệnh viện.
Dù cả Trung đội 20 người chỉ còn duy nhất ông Thành sống sót, sau khi đã tiêu diệt được 125 quân địch, khiến nhiều nhân lực địch bị thương, phá hủy một xe quân sự, làm chậm chi viện của địch từ phía Nam ra.
Năm 1973, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân, đồng thời phong tặng danh hiệu "Trung đội 1 thắng 100" cho Trung đội Mai Quốc Ca để tưởng nhớ chiến công của những người lính thép, ngoan cường, dũng cảm, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, lập chiến công hiển hách.
Trở về từ nơi mình "hy sinh"
Sau khi bị địch bắt và đưa đi điều trị vết thương, ông Thành được đưa về trại tù ở Đà Nẵng. Ở đây, mỗi ngày ông phải đối diện với hàng chục lần hỏi cung, có mặt cả cố vấn Mỹ.
Người chiến sĩ mình đầy thương tích ấy phải nghiến răng chịu đựng những màn tra khảo của địch, những đòn tra tấn đến chết đi sống lại.
Không tra hỏi được gì, địch lại đưa chuyển ông sang trại giam ở Non Nước (Đà Nẵng), rồi tới nhà giam dưới chân núi Sơn Trà. Tra tấn, thuyết phục, dọa dẫm... thấy không kết quả, tháng 9/1972, quân địch đưa ông Thành ra trại tù Phú Quốc... Tại đây, người chiến sĩ năm xưa trải qua những ngày ở "địa ngục trần gian".
Rất may, không lâu sau đó, ngày 10/3/1973, sau khi Hiệp định Paris ký kết, ông cùng các đồng đội bị giam cầm đã được trả tự do ngay tại bờ sông Thạch Hãn, gần với trận địa ác liệt đêm 10/4/1972.
Vết thương cũ tái phát, người lở loét, ông được về an dưỡng, điều trị tiếp thương tật ở Yên Sơn, Tuyên Quang. Tỷ lệ thương tật 51%, xếp hạng 3.
Năm 1974, ông được đơn vị cho phục viên trở về quê hương rồi đi học lớp trung cấp kế hoạch và tham gia công tác tại địa phương.
Tháng 6/1996, khi về thăm lại chiến trường xưa, nơi những đồng đội ngã xuống, ông Thành đau đớn khi nhận ra trong nghĩa trang là 20 ngôi mộ ngay ngắn, nằm sát bên nhau. Trên bia đều đề chung một cái tên "Mộ liệt sĩ Trung đội Mai Quốc Ca", trong đó có cả ngôi mộ mang tên ông, cùng thông tin về quê quán và ngày mất.
Trầm tư đứng ở nơi mình "hy sinh", được chôn cất, an nghỉ, người lính già ôm từng ngôi mộ khóc. Ông vẫn nhớ hình ảnh từng đồng đội lúc bị thương, từng vị trí đồng đội ngã xuống…
Sau này, khi xác định thông tin các liệt sĩ được quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Triệu Phong, Ban liên lạc Trung đoàn 9 đã đề nghị Cục Người có công, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho phép khai quật hài cốt liệt sĩ ở đây, lấy mẫu ADN gửi Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam để tổ chức giám định.
Vượt qua biết bao gian nan, vất vả, kết quả đối chiếu với mẫu ADN của thân nhân các liệt sĩ thuộc Trung đội Mai Quốc Ca có 16/19 mẫu trùng khớp. Năm 2014, phần mộ của 16 liệt sĩ thuộc Trung đội Mai Quốc Ca đã được gắn tên, bổ sung thêm thông tin.
Ngay tại nơi các chiến sĩ của Trung đội Mai Quốc Ca hy sinh, tỉnh Quảng Trị phối hợp với Bộ Giao thông vận tải xây dựng đài tưởng niệm bên bờ sông Thạch Hãn, lấy ý tưởng hình tượng của một trái tim lớn, bên trong có 20 giọt máu tượng trưng cho 20 sinh mệnh, 20 cuộc đời, 20 chiến sĩ của Trung đội anh hùng…