Đồng nát lúc nửa đêm
Đêm về khuya, vẫn có những người cặm cụi với công việc không một phút ngơi nghỉ. Họ là những người phụ nữ, đêm đêm neo mình giữa lòng thành phố trong khung cảnh phồn hoa đầy âm thanh, làm công việc đồng nát để mưu sinh.
Neo mình giữa khuya
Nhặt nhạnh những giá trị nhỏ bé còn sót lại trong đống rác thải hỗn độn, gắn mình với những thứ bỏ đi của người khác chính là cách mưu sinh của không ít người phụ nữ lớn tuổi tại TP Đà Nẵng. Cuộc sống với gánh nặng mưu sinh vốn là vậy, mặc cho đôi chân có mệt mỏi, họ vẫn cần mẫn làm việc chưa bao giờ dám ngơi nghỉ. Trên khắp các nẻo đường, trong những ngõ kiệt của thành phố đang trở mình phát triển này, cũng có những người phụ nữ hằng đêm mồ hôi nhễ nhại ướt đẫm chiếc áo bạc phếch vì sương gió mưu sinh bằng nghề đồng nát lúc nửa đêm như thế này.
Khi ánh nắng chiều vừa tắt cũng là lúc bà Phan Thị Ni (55 tuổi, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) bắt đầu một ngày mưu sinh tại Đà Nẵng. Bà lang thang khắp công viên Biển Đông, công viên Cá Voi (Đà Nẵng) để lượm lặt những chai lọ, thùng giấy, hộp nhựa người ta bỏ đi về bán.
Bà Ni tâm sự, vì sức khỏe yếu nên không ai thuê làm gì cả. Chỉ biết nương nhờ vào cái nghề nhặt ve chai này mà sống qua ngày. Chân bị khớp đau nhức thường xuyên nên bà chẳng đi đâu xa, quanh quẩn ở công viên này gom góp 2 đến 3 đêm rồi bán cũng được trăm ngàn, ăn uống tằn tiện để cuối tháng mới đủ trả tiền trọ cho người ta.
Ở cái tuổi 50 nhưng lưng bà đã hơi còng xuống, chân lại đau nên có lẽ đây là nghề duy nhất bà đủ sức làm. Nhìn bà với dáng người nhỏ bé, gầy guộc, đôi bàn tay nhem nhuốc, chân lấm lem đất cát, bụi đường không khỏi khiến người ta thương cảm. Anh Trần Hữu Tại, bảo vệ công viên Biển Đông ngậm ngùi bộc bạch: "Đêm nào cũng vậy, mặc cho mưa gió vẫn thấy bà Ni lang thang nhặt vỏ chai ở đây. Có những hôm mưa lớn cứ ngỡ bà sẽ không đi được thế mà đến tận khuya, khi cơn mưa nặng hạt tan dần thì lại thấy bà lọ mọ bên những thùng rác nằm dọc công viên nhặt nhạnh. Thấy mà thương quá đỗi!
Con mắt trũng sâu vì mệt mỏi, chị Huỳnh Thị Sương (44 tuổi, thuê trọ tại phường Hòa An, Cẩm Lệ, Đà Nẵng) bảo rằng cái nghề "bới móc" này cũng chẳng sung sướng gì. Vì thứ "cơm từ rác" của thiên hạ ấy mà các chị lao vào vòng xoáy mưu sinh mê mệt từ ngày này qua ngày khác không ngơi nghỉ. Cũng vì thứ ve chai lúc nửa đêm này mà nhiều nỗi cơ cực và cả những câu chuyện đời, chuyện nghề của các chị cứ thế được bộc bạch.
Những người làm nghề nhặt rác đêm như chị Sương, bà Ni thường đi những chiếc xe đạp cà tàng hoặc đi bộ, đội nón, bịt khẩu trang kín mít. Không ai biết mặt mũi họ ra sao, chỉ biết rằng họ là những người mưu sinh lúc nửa đêm với một nghề đặc biệt ấy.
Đêm nào cũng thế, họ hết đi ngõ ngách này đến ngõ ngách khác của phố thị. Họ chỉ cười, điệu cười của người những phận người nhỏ bé đầy chấp nhận. Bởi đa phần những người phụ nữ nhặt đồng nát về đêm ấy đều có hoàn cảnh éo le. Người thì chồng mất, người thì quá nghèo khổ, người thì bệnh tật nên thất nghiệp triền miên. Họ đến từ khắp nơi, có người ở ngoại thành, có người trong hẻm phố, có người ở tỉnh khác cũng về thuê trọ và mưu sinh. Khi đèn phố lên cũng là lúc họ bắt đầu công việc, đến khi chiếc xe hay đôi quang gánh chất đầy những thứ nhặt nhạnh thu vén được thì đồng hồ đã điểm 2-3 giờ sáng.
Cũng là nghề nhặt ve chai đồng nát nhưng những người phụ nữ đi nhặt nhạnh về đêm cực khổ gấp vạn lần khi làm ban ngày. Đời họ gắn với những thùng rác, xe rác. Chị Sương thủ thỉ, bảo những người mưu sinh đêm như chị thường chấp nhận chuyện "đêm cấy, sáng gặt" sau khi thu gom xong thì chở về nhà phân loại, làm xong cũng tới 3-4 giờ sáng mới ngủ, sáng ra thì bán đi lấy tiền trang trải cuộc sống. Làm thì cực nhọc mà thu nhập chẳng được bao nhiêu!
Không chỉ với chị Sương, bà Ni, mà với nhiều người phụ nữ làm công việc này, mỗi đêm họ chỉ dám lót dạ bằng ổ bánh mì không, nếu khá hơn thì có chút thịt, chút rau trong đó và giá cả không quá 10 ngàn đồng. Mỗi đêm nhặt nhạnh cũng chỉ được chừng 40-50 ngàn đồng, họ không dám tiêu pha phung phí, vì sau lưng họ vẫn là một gia đình, là những đứa con mơ được đến trường, là người chồng bệnh tật với những đơn thuốc lên đến tiền triệu mỗi tháng, là người mẹ già mong tấm áo ấm mùa đông.
Cuộc đời trong những tiếng thở đêm
Đêm mùa đông, có những cơn mưa vội vã đổ xuống phố thị khiến nhiều người vội vã tìm nơi trú nấp, hay nhiều người đã yên bình bên chiếc giường ấm áp, thì những người nhặt đồng nát ve chai lại thong dong trên những chiếc xe đạp, tỏa đi khắp các ngõ kiệt của Đà thành. Ít ai hiểu rằng, làm việc trong điều kiện không có những vật dụng bảo hộ, lại ở ngoài trời vào ban đêm, nên những người phụ nữ ấy phải chịu nhiều nguy cơ do tai nạn nghề nghiệp mang lại như các bệnh về da do tiếp xúc với các chất độc hại, các vết thương do sơ sẩy lúc nhặt ve chai đồng nát. Tai nạn lúc nhặt ve chai là một chuyện, nỗi sợ hãi bóng tối mới là chuyện đáng nói. Làm việc về đêm, những người phụ nữ phải đối mặt với nhiều nguy cơ như tai nạn giao thông, thậm chí, một số người còn bị những kẻ "dê xồm", những kẻ nghiện ngập hay những gã đàn ông say rượu trêu chọc, phá phách khi đi làm khuya.
Không chỉ những hiểm nguy có thể nhận ra ngay, còn có rất nhiều "cái bẫy". Chị Sương kể, có lần chị đi làm tối thì có người gọi giật lại, nói rằng đang chuyển nhà nên cần thanh lý một số đồ đạc, nhưng chị không ngờ đó là mồi câu của ông ta. Đến lúc đang gom mấy cân giấy vụn, chị mới phái hiện ra người đàn ông này có ý đồ xâm hại chị. Chị phải kêu to rồi vùng chạy mới thoát được. Từ bữa đấy trở đi, chị cảnh giác hơn khi gặp những mối như thế. Mọi người như chị cũng thêm một bài học kinh nghiệm, có thể kiếm ít tiền một chút nhưng an toàn cho mình là trên hết.
Trong câu chuyện với chúng tôi, nhiều người không ngớt nói về sự vất vả, cực nhọc. Dường như, ánh mắt và nụ cười gượng gạo của họ luôn chất chứa nỗi lo về bữa cơm, manh áo của bản thân, của gia đình. Xòe bàn tay gầy guộc, chai sạn, chị Hải, một phụ nữ ở Bình Sơn (Quảng Ngãi) ra Đà Nẵng mưu sinh bộc bạch: "Giờ cũng cuối năm rồi, tháng cuối năm mà mưa gió thế này tính ra thu nhập cũng chẳng được bao nhiêu. Ngày nhặt được nhiều thì bán nhiều hơn, rồi lo bỏ ống heo một ít chuẩn bị cho Tết. Mang tiếng là đi làm xa mà cuối năm chẳng mang vật gì đáng giá về cho bọn trẻ, cảm thấy xấu hổ với con. Nhưng, biết đâu tuần sau đi dọn nhà mới chắc cũng xin được ít thứ có giá trị mang về cho lũ trẻ có cái chi đó vui tết chứ!". Quả thật cái nghề lao động tự do này chẳng nói trước được điều gì, cũng giống như sự hên - xui vậy. Có những ngày cuối tuần, lượng ve chai cũng nhiều hơn, nhưng những người phụ nữ lại vất vả hơn. Chị Hải còn sức lực nên buổi trưa đi phụ bán cơm với người ta, cũng gọi là khá hơn so với những người nhặt ve chai đêm khác.
Dẫu vậy, bên cạnh những hiểm nguy rình rập ấy hay cả nỗi vất vả hằng đêm của phận người ấy, những người phụ nữ này vẫn có một niềm tin để hy vọng, đó là gia đình nhỏ bé của mình, là những đứa con với tương lai tươi sáng. Với những người phụ nữ nhặt ve chai mưu sinh đêm ấy, có những những đồng tiền nhọc nhằn nhưng trong sạch chắt chiu từ phế liệu kia đã nuôi nhiều người con khôn lớn, đứa vào đại học, đứa thành tài, đứa lập nghiệp, đứa dựng vợ gả chồng.
Tôi nhìn những chiếc xe chở đầy phế liệu, hay những chiếc bao tải đựng lặc lè vỏ lon, chai nhựa, giấy bồi của các chị cô lẻ giữa màn đêm mà xót xa. Đêm mùa đông những ngày tháng cuối năm, ánh đèn vàng vọt của phố thị giữa lất phất mưa mà lòng ấm lại. Trên ghi-đông những chiếc xe đạp ấy treo lúc lỉu chai nước, ổ bánh mỳ, đó là bữa lót dạ của các chị sau những phút mệt nhoài nhặt nhạnh. Đêm bớt lạnh hơn khi cuộc mưu sinh một ngày kết thúc bằng những giọt mồ hôi nhễ nhại chảy trên khuôn mặt đen nám vì bụi bẩn của những người phụ nữ. Nhưng, tôi đã thấy trong đó nét đẹp vĩnh cửu của sự tảo tần, dù lam lũ nhưng đáng trân trọng, dù có nhọc nhằn vẫn mạnh mẽ trong đêm.
Theo mỗi vòng bánh xe, trong cuộc mưu sinh khắc nghiệt như đêm nay, bỏ đằng sau những vất vả và hiểm nguy, mỗi người phụ nữ nhặt phế liệu vẫn tìm thấy niềm vui nho nhỏ và yên bình của mình. Tôi vẫn thấy các chị cười, nụ cười rực sáng dưới ánh đèn khuya...