NSND Đặng Nhật Minh ân hận khi chưa kịp làm phim về Phạm Duy
(Dân trí) - “Ông đã đi xa, để lại niềm ân hận vô cùng trong tôi. Tôi chưa thực hiện được bộ phim về cuộc đời ông và bây giờ thì không còn cơ hội nào nữa. Cả cuộc đời tôi có biết bao điều ân hận, bao dự định không thành!” - NSND Đặng Nhật Minh.
Sáng ngày 28/1/2013, tôi nhận được bức thư email của anh Nguyễn Đắc Xuân với vẻn vẹn mấy chữ : Vĩnh biệt nhạc sỹ Phạm Duy cùng tấm hình anh đang cúi xuống hôn lên trán nhạc sỹ đang nằm xuôi tay trên giường trong bộ áo cánh mầu đỏ gụ. Gương mặt ông thanh thản như gương mặt của người nông phu trong giấc ngủ dài sau khi cày xong một thửa ruộng.
Bức ảnh chụp và gửi đi từ Ipad vào lúc 3 giờ 45 phút sáng ngày 27 tháng 1. Tôi đã biết tin buồn này ngay sau khi ông qua đời trên các báo mạng, nhưng khi nhìn thấy hình ông nằm đó, lòng bỗng trào dâng một cảm xúc bồi hồi tiếc thương khó tả. Tôi ngồi vào bàn phím, viết vội vài giòng reply lại cho anh Xuân như sau:
Anh Nguyễn Đắc Xuân thân mến,
Tôi đọc báo mạng, biết tin buồn từ tối hôm qua. Đành rằng ai rồi cũng phải ra đi, và sự ra đi của Nhạc sỹ Phạm Duy cũng không nằm ngoài quy luật chung của tạo hóa. Nhưng phải chia tay với một con người khổng lồ của âm nhạc Việt Nam làm chúng ta không khỏi bồi hồi luyến tiếc.
Tôi được gặp ông không nhiều. lần đầu tiên là ở Paris trong dịp ông sang Pháp giới thiệu đĩa CD “Kiều ca”, sau đó vài lần ở VN. Nhưng từ năm 11 tuổi rời Huế theo gia đình lên Việt Bắc tôi đã thuộc lòng tất cả những bài hát của ông sáng tác trong Kháng chiến chống Pháp. Những ca khúc đó đã nuôi dưỡng trong tôi tình yêu quê hương, đất nước, nơi có những bà mẹ, những cô thôn nữ nghèo và những người thương binh trong ngày trở về... Bản thân tôi và cả thế hệ tôi biết ơn ông nhiều lắm!
Nhờ anh thắp hộ tôi một nén nhang vĩnh biệt trước linh cữu của ông và chuyển đến những người thân của nhạc sỹ lời chia buồn sâu sắc nhất của tôi.
Đặng Nhật Minh
Hồi còn nhỏ học ở trường Thiếu nhi Việt Nam sơ tán sang bên Quế Lâm Trung quốc, học sinh chúng tôi học giảng văn theo giáo trình do các thầy cô người Việt Nam (đều thuộc tầng lớp tiểu tư sản đi theo kháng chiến) tự biên soạn lấy. Đó là những áng văn thơ cho đến nay vẫn còn rung động trái tim tôi mỗi khi nhắc đến.
Trước tiên phải kể đến những câu thơ bất hủ của Nguyễn Đình Thi trong bài “Đất nước”:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người không bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về...
Rồi đến "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm:
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Ta lại tìm em
Em mặc áo trắng, em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn nguôi... của Quang Dũng cùng những tuỳ bút hào sảng trữ tình của Thép Mới và cả của nhà văn Nga Ilya Erenbourg viết trong chiến tranh vệ quốc ở Liên Xô do Thép Mới dịch sang tiếng Việt:
Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa hè hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh...
Những áng văn thơ ấy, đã thấm vào máu vào thịt chúng tôi để rồi lắng lại như một chất keo gắn bó chúng tôi với số phận của đất nước.
Dĩ nhiên chất keo đó còn được tạo nên từ nhiều ca khúc kháng chiến, đầu tiên phải kể đến những ca khúc của nhạc sỹ Phạm Duy mà tôi được biết từ khi còn là đứa trẻ. Có lần tôi nói với ông điều đó, ông chỉ khiêm nhường đáp: “Cám ơn anh” (trong khi người phải cám ơn là tôi).
Người nhạc sỹ nổi tiếng là kiêu bạc này có lúc lại hồn nhiên như một đứa trẻ. Lần đầu tiên tôi được gặp ông là tại giảng đường trường Đại học Paris 7 khi ông sang đó cùng con trai Duy Cường trình bày bản “Kiều ca” mà ông mới sáng tác được một vài chương đầu.
Cái ấn tượng của bản nhạc đối với tôi không mạnh mẽ bắng cái ấn tượng được nhìn thấy ông bằng xương bằng thịt ngay trước mắt mình. Phải nói ông có vẻ đẹp của một ông già phong độ đầy quyến rũ và lãng mạn. Phần giới thiệu âm nhạc xong, cha con ông thu xếp máy móc, đồ nghề như một gánh hát rong hoàn thành xong phần trình diễn. Rồi rất tự nhiên ông yêu cầu mọi người mua giúp vài đĩa CD “Kiều ca” mà ông vừa giới thiệu. Ông bầy luôn chồng đĩa trên mặt bàn rồi ngả chiếc mũ phớt ra để bên cạnh.
Hầu như tất cả cử tọa hôm ấy ai cũng đều hưởng ứng. Cái mũ phớt của ông đầy ắp tiền. Tôi thấy ông hào hứng ra mặt như một đứa trẻ nhận tiền lì xì ngày Tết. Tôi biết những năm tháng ly hương nơi đất khách quê người đời sống của ông không dễ dàng gì hơn nữa lại một nách gà trống nuôi con (mà ông có đến 8 người con). Nhưng ở đâu và lúc nào ông cũng rất ga lăng, ăn mặc đúng mốt Parisien (người Pari) như những nghệ sĩ sành điệu nhất ở khu Montmartre.
Cái hồn nhiên ở con người ông làm tôi lại thấy gần ông hơn bởi tôi hiểu ra rằng: ông cũng là người trần mắt thịt như ai. Ông chỉ khác mọi người ở chỗ ông là người có tài, có quá nhiều tài. Hay nói cách khác: ông là thiên tài sống giữa đời thường với những tính cách của con người bình thường như chúng ta.
Do đó, âm nhạc của ông cao sang nhưng không xa lạ, nó bình dị như hơi thở, như cơm ăn nước uống hàng ngày. Một lần trở lại Paris, chị Thụy Khuê làm ở đài Phát thanh RFI cho biết nhạc sỹ Phạm Duy có nhờ chị tìm cho băng video cuốn phim “Bao giờ cho đến tháng 10” của tôi. Không biết ai giới thiệu nó với ông. Hồi đó chưa có đĩa DVD và trong tay tôi lúc đó cũng không có băng video nào.
Mãi sau này khi ông về nước tôi mới có dịp gửi tặng ông đĩa DVD cuốn phim đó. Tôi biết ông ấp ủ ý định trở về Việt Nam sinh sống từ lâu. Ông tâm sự điều đó với rất nhiều người, những người bạn của ông và cả những người có trọng trách trong nước. Thoạt đầu ông được trở về với tư cách như Việt kiều về thăm quê. Sau vài lần về như vậy ông có ý định về sống hẳn ở quê hương.
Câu chuyện trở về của ông tốn không biết bao nhiêu giấy mực trên báo chí trong và ngoài nước. Tôi chỉ có một kỷ niệm nho nhỏ với ông liên quan đến sự kiện này như sau: Lần ấy tôi được mời sang Mỹ giới thiệu phim của mình tại một số trường Đại học. Một hôm, một anh bạn Việt kiều nói với tôi hôm nay là ngày sinh nhật của nhạc sỹ Phạm Duy, anh có muốn gọi điện chúc mừng ông không? Vậy là từ San Fransisco tôi đã được nói chuyện với ông ở Los Angeles.
Ông than phiền vói tôi rằng đã gửi đơn xin về Việt Nam đã lâu mà không hề có hồi âm. Ông buồn lắm. Tôi hỏi ông gửi đi đâu? Ông bảo ông gửi cho Bộ Công An. Tôi cắt nghĩa cho ông rằng họ không hồi âm là phải vì đó không phải là trách nhiệm của họ. Ông phải gửi về đúng nơi xem xét giải quyết những việc như thế này: đó là Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài. Địa chỉ 32 Bà Triệu, Hà Nội. Gửi đúng tên ông Chủ nhiệm của Ủy ban là ông Nguyễn Phú Bình.
Sau đó trở về Việt Nam tôi gặp ông Bình, thuật lại câu chuyện trên. Ông Bình cười nói: anh bảo ông gửi về chỗ tôi là đúng địa chỉ. Tôi sẽ xin ý kiến trên để ông ấy trở về. Không lâu sau đọc báo tôi biết tin nhạc sỹ Phạm Duy ra Hà Nội để chính thức nhận quốc tịch Việt Nam do ông Nguyễn Phú Bình trao tại trụ sở Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài.
Từ khi ông trở về nước, sống tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi có cơ hội gặp ông nhiều hơn. Cái lần gặp mà tôi nhớ mãi cho đến tận giờ là lần gặp ông ở Huế trong dịp Festival lần thứ 4 năm 2006. Lần ấy tôi được mời làm thành viên Ban chỉ đạo nghệ thuật của Festival.
Chương trình đêm khai mạc đã hoàn tất, các tiết mục đã được lãnh đạo tỉnh duyệt lần cuối. Tôi vui mừng vô cùng vì trong chương trình có ca khúc “Tình ca” của nhạc sỹ Phạm Duy do nữ nghệ sỹ Ánh Tuyết biểu diễn. Tôi nghĩ đây sẽ là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt ghi dấu cuộc trở về của nhạc sỹ Phạm Duy. Ông được ban tổ chức Festival mời từ TP. Hồ Chí Minh ra Huế dự đêm khai mạc như một khách mời đặc biệt.
Ông được bố trí ở tại khách sạn Pilgrimage Village ngay cạnh phòng tôi. Tôi thấy ông rất vui và tôi cũng vui không kém. Còn gì vui hơn khi một ca khúc đã theo tôi suốt từ thời thơ ấu nay lại được cất lên trên chính thành phố quê hương mình. Nhưng bỗng nhiên chiều trước đêm khai mạc ban tổ chức cho biết hai ca khúc “Con đường cái quan” và “Tình ca” sẽ không có trong chương trình khai mạc nữa.
Hỏi những người có trách nhiệm thì chỉ biết đó là do phản ứng gay gắt từ một số người ở Hà Nội. Tôi đi tìm nhạc sỹ Phạm Duy, định sẽ nói với ông vài lời an ủi, bởi tôi biết đây không phải chủ trương của Ban tổ chức Festival hay của lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhưng không thấy ông ở trong phòng bên nữa. Ông đã trả phòng.
Anh Hoa trưởng ban tổ chức Festival cho biết ông đã khóc khi nghe tin này và rời Huế ngay chiều hôm đó. Đêm khai mạc Festival tôi không còn lòng dạ nào mà thưởng thức những tiết mục biếu diễn nghệ thuật. Tôi hình dung hình ảnh người nhạc sĩ già tóc bạc trắng như cước đang ngồi trên máy bay rời Huế mà lòng thấy quặn đau.
Bây giờ thì khác rồi, chương trình nào của nhạc sỹ Phạm Duy đều không thể thiếu bản “Tình ca”. Lần gần đây nhất nghe ca khúc này trong chương trình “Điều còn mãi” tại Nhà hát lớn Hà Nội chiều 2 tháng 9 năm 2012 do ca sĩ Nguyên Thảo hát mà nước mắt tôi cứ trào ra.
Những ngày sau khi ông về nước không lâu, một hôm tôi nhận được một cú điện thoại từ thành phố Hồ Chí Minh của chị Phan Thị Lệ. Chị cho biết Công ty Văn hóa Phương Nam của chị đang soạn thảo bản hợp đồng mua bản quyền toàn bộ các sáng tác của nhạc sỹ Phạm Duy kể cả bản quyền làm phim về cuộc đời của ông. Chị cho biết nhạc sỹ yêu cầu ghi rõ trong hợp đồng tên người làm bộ phim đó là tôi. Bởi vậy mới có cú điện thoại của chị Lệ. Tôi cảm động vô cùng trước sự tin cậy của ông nhưng lúc này đây, khi ông đã đi xa thì đó lại là niềm ân hận vô cùng của tôi. Tôi chưa thực hiện được bộ phim đó và bây giờ thì không còn cơ hội nào nữa. Cả cuộc đời tôi có biết bao nhiêu điều ân hận, bao dự định không thành!
Nhạc sỹ Phạm Duy đã để lại cho đời một gia tài vô giá. Một nghìn ca khúc của ông mỗi bài một vẻ, giai điệu không bài nào lặp lại bài nào, nhưng có một bài để lại ấn tượng nhất cho tôi đó là một bài hát tôi chưa bao giờ được xem biểu diễn trên sân khấu mà chỉ được xem trên YouTube qua màn hình máy vi tính. Đó là ca khúc “Việt Nam Việt Nam” được phối khí cho dàn nhạc giao hưởng cùng một dàn đồng ca hết sức hoành tráng. Ca khúc đó có những lời như sau :