“Nghề làm tranh Đông Hồ” sẽ được đệ trình lên UNESCO
(Dân trí) - Được sự phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Bắc Ninh đã gấp rút chỉ đạo các cơ quan chuyên môn xây dựng hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” đệ trình UNESCO.
Trao đổi với PV Dân trí, ông Nguyễn Văn Giáp - Trường phòng Di sản, Sở VHTT&DL tỉnh Bắc Ninh cho biết: Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch vừa phê duyệt danh sách di sản văn hóa phi vật thể dự kiến lập hồ sơ trình UNESCO. Trong đó, “Nghề làm tranh Đông Hồ” đã được duyệt. UBND tỉnh Bắc Ninh đã gấp rút triển khai các thủ tục cần thiết để xây dựng hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” theo quy định của UNESCO”.
Theo ông Giáp, việc lập hồ sơ khoa học sẽ được tiến hành đúng các bước theo lộ trình và dự kiến hoàn thành vào năm 2015. Trước đó, “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian với xuất xứ từ làng Đông Hồ - xã Song Hồ - Thuận Thành - Bắc Ninh.
Ngoài các đặc điểm về đường nét và bố cục, nét dân gian của tranh Đông Hồ còn nằm ở màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng. Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá chàm), vàng (hoa hòe)...
Trên cơ sở những màu sắc cơ bản ấy, người dân đã tạo thêm nhiều màu sắc khác nhau từ việc trộn lẫn các màu. Để hoàn thành một sản phẩm, không kể khâu khắc tranh trên bản gỗ, có sẵn giấy và màu, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận trong từng giai đoạn.
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ tồn tại từ thế kỷ 16, phát triển rực rỡ vào thập niên 40 của thế kỷ XX. Đến nay, do cơ chế thị trường khiến dòng tranh dân gian Đông Hồ đang bị mai một. Hiện nay, cả làng có gần 400 hộ với hơn 1.500 nhân khẩu, thì có hơn 90% số các hộ sản xuất và buôn bán vàng mã. Làng Đông Hồ chỉ còn một vài gia đình bám trụ với nghề như gia đình ông Nguyễn Đăng Chế, gia đình ông Nguyễn Hữu Sam, Trần Nhật Sở...
Việc làm hồ sơ khoa học trình UNESCO đưa “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp có ý nghĩa quan trọng nhằm tiếp tục gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa đặc biệt này.