Chuyện tình nổi tiếng đằng sau bài thơ danh tiếng (I)
(Dân trí)- “…Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm/Có những ngày trốn học bị đòn roi/Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/Có một phần xương thịt của em tôi…”- Đằng sau mỗi câu thơ nổi tiếng ấy là một câu chuyện tình yêu nhiều nước mắt của nhà thơ Giang Nam.
Ở cái tuổi 83, nhà thơ Giang Nam vẫn còn minh mẫn, hàng ngày ông vẫn đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo, những trang hồi ký đang viết dở, tập dưỡng sinh và làm thơ tình tặng riêng cho… vợ.
Cùng ở khối cơ quan Quân Dân Chính Đảng, thường xuyên được giáp mặt nhau nhưng cũng chỉ dám liếc nhìn chứ không nói chuyện riêng được lâu. Vì cái thời đó, cách mạng là trên hết. Cho đến ngày, ông có tên trong danh sách đi chiến trường. Thấy tình cảm cao đẹp của hai người đã chín muồi nên tổ chức đã gọi ông đến và nói: “Nếu yêu rồi thì phải xác định gắn với cách mạng, tình yêu của người lính phải luôn cao cả”. Niềm vui như vỡ òa, ông về tất bật chuẩn bị và nhờ tổ chức đứng ra chủ trì cho hôn nhân của ông. Sau đêm tân hôn đúng 2 ngày (vào đầu năm 1955), ông phải nhận nhiệm vụ mới ở Bình Định.
Khi chia tay, bà Triều tặng cho ông chiếc khăn tay và lá thư với lời nhắn nhủ ngắn gọn: “Hãy giữ gìn sức khỏe, tình yêu của em luôn trọn vẹn cho anh, mãi mãi là vậy và lớn thêm. Anh hãy sống cho lý tưởng cách mạng trước chứ đừng lo nghĩ cho em nhiều. Dù có bất cứ điều gì xảy ra, em cũng một lòng đợi anh, chung thủy với anh”. Ông bà và đồng đội hy vọng rằng chỉ hai năm sau sẽ được đoàn tụ theo tinh thần Hiệp định Genève giữa ta và Pháp, không ai nghĩ đó là cuộc chia ly không hẹn ngày về. Tuy sau đó, ông được tổ chức đưa về lại Nha Trang, được đưa vào Sài Gòn làm giấy tờ hợp pháp với tên họ, quê quán mới để dễ bề hoạt động. Dù sống ngay trên thành phố quê hương mình nhưng ông bà hoạt động ở 2 tuyến khác nhau, không được gặp mặt.
Vào những năm 1957-1958, ông và vợ ông ở hai tuyến công tác khác nhau nhưng lại may mắn gặp nhau khi đổi vùng vào Nam Bộ hoạt động. Vợ chồng ông thuê một căn nhà lá nhỏ trong một xóm lao động nghèo ở Biên Hòa để ở. Hàng ngày vợ ông đi bán bánh bò ngoài chợ, còn ông thì làm công cho cho một tư sản thầu khoán người Việt. Tuy cuộc sống nghèo khổ cơ cực nhưng vợ chồng ông rất vui vì lần đầu sau 4 năm làm lễ thành hôn trên căn cứ Đá Bàn (Ninh Hòa) mới có điều kiện ở gần nhau.
Rồi vợ ông sinh được một cháu gái. Đó là nỗi vui mừng to lớn đối với vợ chồng ông. Tuy nhiên vì công việc của chủ gắn với mỏ đá ở Long Khánh (Xuân Lộc) và con đường tỉnh lộ 2 La Gi – Hàm Tân (tỉnh Bình Tuy) nên ông phải thường xuyên sống xa nhà. Hàng tuần ông chỉ về nghỉ một lần. Bà thím nhà bên người đã cho ông thuê nhà, ái ngại với hoàn cảnh của vợ ông đã thường chạy qua lại giúp đỡ - khi thì đi chợ hộ, khi thì dỗ cháu bé ngủ. Cháu rất ngon, bụ bẫm dễ nuôi nhưng thỉnh thoảng có đêm cháu khóc mãi không ngủ được. Bà thím qua bế nó và bảo vợ ông: “Trẻ nhỏ coi vậy mà khôn lắm, nó nhớ cha nó đó. Cô coi có cái áo nào của chú đắp cho nó ngủ”. Không biết vì mồ hôi quen thuộc hay vì cái gì khác mà con ông sau đó nín khóc và ngủ ngon lành.
Chiều hôm đó anh Phó Bí thư Tỉnh ủy gọi ông lên chỗ làm việc. Ông có linh cảm điều gì đó không bình thường mới xảy ra. Quả nhiên sau đó anh Phó Bí thư Tỉnh ủy đã nói thật: tin của cơ sở trong thành vừa báo cho biết vợ và con gái ông bị địch bắt trước đó hơn một năm đã bị chúng thủ tiêu, trong hoàn cảnh nào thì chưa xác minh được nhưng chắc chắn là không còn sống.