Gặp người 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số
(Dân trí) - Chúng tôi gặp lại người cựu binh Vũ Trung Tính - người từng 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số năm xưa, giờ mái tóc đã bạc trắng - và được nghe câu chuyện kể về những hành trình đã đi vào huyền thoại.
Ngắm sao trời dò đường đi...
Năm nay đã gần 70 tuổi, ông Vũ Trung Tính sống cùng con cháu tại xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Cũng như bao cựu binh khác, những ngày kỷ niệm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển, ông Tính luôn bận rộn với những chuyến đi thăm hỏi đồng đội hay gặp gỡ giao lưu.
Sinh ra và lớn lên ở vùng quê miền biển huyện Tĩnh Gia, lớn lên bên biển nhưng ông Tính cứ lên tàu là bị say sóng. Nhưng càng lớn, cái bản chất “ăn sóng nói gió” lại càng trỗi dậy mạnh mẽ. Năm 1960, lúc đó mới 16 tuổi, ông Tính đã “vô địch” bơi lội cấp huyện và được cử tham gia giải bơi lội cấp tỉnh.
Năm 17, ông thi và trúng tuyển vào trường Trung cấp Hàng hải tại Hải Phòng. Đến tháng 2/1964, Quân chủng Hải quân tuyển lính mới. Do có tài bơi lội nên ông đã trúng tuyển vào Quân chủng lính thủy. Chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết nhập ngũ và được đi huấn luyện tân binh ở Trung đoàn 170 đóng tại Quảng Ninh.
Từ tháng 4/1964, ông Tính được điều về Lữ đoàn 125 làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.
Suốt cuộc đời ông không bao giờ quên cái ngày đầu tiên lên tàu lênh đênh trên biển cả. Những lính mới như ông sau khi nhập Lữ đoàn 125 được đưa ra khu vực Long Châu cách Bạch Long Vĩ khoảng 46 hải lý, cách đất liền 20 hải lý để tập với sóng nước biển khơi. Đây là vùng biển thường xuyên có sóng cuộn cao lên rồi đổ ầm xuống rất nguy hiểm. Tuy ngày nhỏ cứ hễ lên tàu là ông say sóng, nhưng với sức trẻ và lòng yêu nước, ông đã xuất sắc vượt qua cuộc “thử lửa”.
Rồi ông được điều về phụ trách Hàng hải số 1 trên tàu 42. Nhiệm vụ của ông là làm kế hoạch đi biển, tác nghiệp hải đồ, xử lý la bàn, máy đo thiên văn, thử sóng... Tóm lại ông làm nhiệm vụ dẫn đường, chọn đường đi sao cho ngắn nhất, tránh không bị địch phát hiện và cập bến với thời gian nhanh nhất, tiết kiệm, an toàn nhất, tàu không va phải đá ngầm...
“Tất cả những người tham gia hoạt động trên đoàn tàu không số đều xác định có thể có ngày đi mà không có ngày về. Khi lên tàu, toàn bộ mọi thứ thuộc về tài sản cá nhân, tài liệu bí mật thuộc ngành cơ yếu và hàng hải đều phải để lại trên đất liền, tránh hiểm họa nếu bị địch phát hiện đánh phá sẽ thu thập được thông tin”, ông Tính nhớ lại.
Suốt từ tháng 6/1964 đến năm 1970, ông Tính đã cùng đơn vị vận chuyển an toàn 18 chuyến hàng vào Cà Mau an toàn, trong đó có chuyến đi mở đường sau sự kiện Vũng Rô.
Bao nhiêu năm lênh đênh trên biển, đối mặt với không biết bao nhiêu hiểm nguy và kẻ thù, đã có biết bao nhiêu kỷ niệm đi qua cuộc đời người lính trên những chuyến tàu không số. Giờ đây, khi ngồi nhớ lại, ấn tượng nhất đối với ông là chuyến tàu mở đường sau sự kiện Vũng Rô.
Những kỷ niệm sâu sắc như đang ùa về trong tâm trí người cựu binh Vũ Trung Tính. Đầu năm 1965, tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển của ta bị lộ. Tháng 2/1965, khi chuyến tàu không số vào đến Cà Mau thì bị địch đánh phá.
Địch tìm đủ mọi cách để bắt bằng được tàu của ta. Chúng bố trí Hải quân Ngụy trông coi vòng trong với khoảng cách 12 hải lý tính từ đất liền ra. Bên ngoài là Hạm đội 7 kiểm soát, trên đầu là máy bay tuần tiễu, dọc theo bờ biển địch bố trí các trạm ra đa đối hải. Trước sự rà soát chặt của địch, nhiều chuyến hàng trên đoàn tàu không số đã không thể cấp bến, lực lượng hy sinh hao tổn. Từ tháng 2 - 8/1965, không có một chuyến hàng nào về đến đích an toàn.
Trước nhiệm vụ cấp bách, Lữ đoàn 125 đã rà soát lại lực lượng, thành lập đội quân tinh nhuệ mới trên tàu 42. Công tác chuẩn bị cho tàu 42 ra khơi sau sự kiện Vũng Rô mất 3 tháng trời. Theo đó trong trường hợp nếu bị địch phục kích khi đang trên đường hoạt động thì người này có thể đảm nhiệm vị trí của người khác nếu xảy ra hi sinh. Quyết không để đạn dược, vũ khí rơi vào tay địch, sẵn sàng hy sinh để giữ bí mật cho con đường trong giai đoạn mới.
Trên chuyến tàu tái mở đường, ông Tính tiếp tục đảm nhận vai trò Hàng hải số 1. Đêm 15/10/1965, tàu 42 rời bến Hải Phòng, những chiến sĩ đã cải trang con tàu thành tàu đánh cá của ngư dân vùng biển Đông Nam Á, sơn màu ngọc bích.
Ông đã vạch ra kế hoạch là phải đi xa bờ và hoàn toàn phải dùng hàng hải thiên văn, tức phải ngắm sao, mặt trời, mặt trăng để định hình đường đi. Tàu 42 ra đến vị trí vòng qua một hòn đảo thì bị địch phát hiện. Ngay lập tức con tàu rơi vào tình thế phục kích, trên trời là máy bay trinh sát do thám, dưới biển là khu trục hạm đội bám sát hông tàu suốt 5 ngày đêm. Có lúc máy bay địch rà sát mặt biển soi mói nhưng do con tàu được cải trang một cách hoàn hảo nên địch đã thất bại không xác định được.
Theo kế hoạch, tàu được lệnh vào cửa Bồ Đề, Cà Mau nhưng vì địch vây ráp quá chặt không vào được nên tiếp tục lênh đênh trên biển tiếp 4 ngày, sang tận Philippin vừa tránh địch vừa làm nhiệm vụ do thám. 4 ngày sau nữa mới nhận được lệnh vào bến phụ Rạch Kiến Vàng ở Cà Mau, kịp thời cung cấp 60 tấn hàng hóa, đạn dược cho chiến trường miền Nam, trong đó có 4 quả thủy lôi. Sau chuyến đi khai phá thành công tuyến đường mới này, tàu 42 được Quốc hội, Chính phủ tuyên dương phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Kỷ niệm về đồng đội
Trong những ngày này, cả nước đang hướng đến kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển. Những người con anh dũng năm xưa, giờ đây người còn, người mất. Và có lẽ sẽ khó để nói lên hết được những cống hiến, hi sinh thầm lặng của những người đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho tổ quốc.
Trong cuộc đời người lính thủy, không ai là không biết về Anh hùng Bông Văn Dĩa và ông Tính cũng vậy. Năm 1961 ông Dĩa được Trung ương bố trí giao nhiệm vụ tổ chức thăm dò tuyến đường biển từ miền Bắc vào Cà Mau để chở vũ khí phục vụ cho miền Nam đánh giặc.
Qua 2 chuyến đi thăm dò, ngày 14/9/1962, Bông Văn Dĩa trực tiếp chỉ huy chở chuyến hàng đầu tiên mang theo 28 tấn vũ khí từ miền Bắc và cập bến Vàm Lũng, Cà Mau vào ngày 20/9/1962 an toàn. Bông Văn Dĩa trở thành người chiến sĩ đầu tiên mở đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
Cả 18 lần cùng đoàn tàu không số hoạt động trên biển, ông Tính đều hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Sau khi trở về, ông Tính tiếp tục đi học tại Liên Xô rồi về công tác tại Bộ tham mưu Hải quân, tham gia chiến dịch rà phá thủy lôi, đi làm chuyên gia ở Campuchia…
Người lính thủy năm xưa giờ đã nghỉ hưu về sống tại địa phương và ông vẫn tiếp tục cống hiến công sức của mình cho xã hội. Nhiều năm liền, ông làm Bí thư Đảng ủy xã Hải Ninh. Hiện ông là Trưởng ban liên lạc truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển tại Thanh Hóa.
“Tôi may mắn hơn nhiều đồng đội khác đã phải nằm lại nơi chiến trường cũng như những đồng đội trong cuộc sống hiện tại. Hầu hết số họ trở về sau chiến tranh đều gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Chúng tôi đang nỗ lực vận động để những người lính năm xưa có được sự quan tâm thiết thực hơn nữa của Đảng và Nhà nước, phần nào vơi đi khó khăn trong cuộc sống đời thường”, giọng ông trầm xuống như để tưởng nhớ đến những đồng đội đã hy sinh nơi chiến trường.
Duy Tuyên