(Dân trí) - Nền kinh tế Nga không được liệt vào diện siêu cường song Nga lại có một thứ khiến các nền kinh tế lớn không dám coi thường, đó là dầu mỏ.
NỀN KINH TẾ PHỤ THUỘC VÀO DẦU MỎ
Trong bức tranh lớn, Nga không nằm trong nhóm các cường quốc kinh tế toàn cầu. Tính theo tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thước đo phổ biến nhất để đo lường dấu ấn kinh tế của một quốc gia, Nga đứng thứ 11 trên thế giới và bằng 1/14 GDP của Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nga cũng xếp sau Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Ấn Độ, Pháp, Ý, Canada và Hàn Quốc.
Nga cũng là một quốc gia tương đối "nghèo" khi xét đến dân số với khoảng 145 triệu người. Tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người của Nga thấp hơn so với nhiều nước. Thậm chí, một số quốc gia vệ tinh trong Chiến tranh Lạnh trước đây của Liên Xô hiện đã vượt Nga về GDP bình quân đầu người, bao gồm Ba Lan, Hungary, Cộng hòa Séc và Slovakia.
Nga cũng là một nước đóng vai trò tương đối nhỏ trong thương mại quốc tế nói chung. Quốc gia này đứng thứ 20 trên thế giới về xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, xếp sau Hà Lan, Ireland, Thụy Sĩ, Bỉ, Tây Ban Nha và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất cũng như các trung tâm thương mại của châu Á là Singapore và Hồng Kông.
Nhưng trước chiến sự căng thẳng Nga - Ukraine, tại sao phương Tây lại có phần do dự trong các biện pháp trừng phạt kinh tế. Câu trả lời rất đơn giản, đó là vì dầu mỏ, khí đốt tự nhiên.
Nga là nước xuất khẩu khí đốt tự nhiên và dầu lớn nhất thế giới. Trong cuộc phỏng vấn với Forbes, Anatoly Chubais, cựu Bộ trưởng kinh tế của Boris Yeltsin, gọi dầu mỏ là "xương sống" của nền kinh tế Nga. Trên thực tế, dầu mỏ chiếm 20% tổng sản phẩm quốc nội của Nga, 40% ngân sách và 60% xuất khẩu của nước này. Năm 2021, giá trị xuất khẩu dầu thô của Nga lên tới hơn 110,1 tỷ đôla Mỹ, tăng 52% so với năm trước.
Một số chuyên gia cho rằng việc cắt giảm xuất khẩu có thể làm tăng giá các mặt hàng đó lên tới 50%. Josh Lipsky, Giám đốc Trung tâm Địa kinh tế tại Hội đồng Đại Tây Dương, một tổ chức tư vấn quốc tế, cho biết: "Khác với Triều Tiên, Venezuela hay Iran, Nga xuất khẩu lượng lớn năng lượng cho các nước trên khắp thế giới, vì vậy quốc gia này rất quan trọng về mặt hệ thống và đặc biệt quan trọng đối với thị trường năng lượng thế giới".
"NHÀ CUNG CẤP DẦU TOÀN CẦU" QUAN TRỌNG THẾ NÀO?
Nga sản xuất gần 11 triệu thùng dầu thô mỗi ngày và một nửa sản lượng này được sử dụng cho nhu cầu trong nước. Do đó, quốc gia này xuất khẩu từ 5 đến 6 triệu thùng mỗi ngày. Hiện Nga là nhà sản xuất dầu thô lớn thứ hai trên thế giới, sau Mỹ và trước Ả Rập Xê Út, nhưng đôi khi thứ tự này cũng có sự thay đổi.
Khoảng một nửa lượng dầu xuất khẩu của Nga (2,5 triệu thùng mỗi ngày) được vận chuyển đến các nước châu Âu, bao gồm Đức, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Phần Lan, Lithuania, Hy Lạp, Romania và Bulgaria. Gần 1/3 trong số đó đến châu Âu qua Đường ống Druzhba qua Belarus.
Vào năm 2019, châu Âu đã ngừng nhận giao hàng trong vài tháng từ dòng Druzhba khi dầu thô chảy qua nó bị nhiễm clorua hữu cơ có thể làm hỏng các nhà máy lọc dầu trong quá trình chế biến. Các chuyến hàng dầu của Nga đã giảm đáng kể khi nó chuyển hướng dòng chảy để tránh dòng Druzhba. Những chuyến hàng xuất khẩu dầu thô còn lại của Nga sang châu Âu chủ yếu đến bằng tàu từ các cảng khác nhau.
Trung Quốc là một khách hàng lớn khác của Nga với việc nhập khẩu 1,6 triệu thùng dầu thô mỗi ngày. Một nửa đến qua một đường ống dẫn trực tiếp đặc biệt, đường ống Đông Siberia Thái Bình Dương, cũng phục vụ các khách hàng khác qua một cảng ở điểm cuối, bao gồm Nhật Bản và Hàn Quốc.
Nga cũng có những thỏa thuận cung ứng đặc biệt với các nước như Cuba và Venezuela.
Các biện pháp trừng phạt đối với ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga sẽ có tác động lớn hơn việc hạn chế các dòng khí đốt tự nhiên vì doanh thu từ dầu mỏ của Nga cao hơn và quan trọng hơn đối với ngân sách nhà nước của nước này. Như trên đã nêu, Nga kiếm được hơn 110 tỷ USD vào năm 2021 từ xuất khẩu dầu, gấp đôi so với thu nhập từ việc bán khí đốt tự nhiên ở nước ngoài.
Vì dầu mỏ là một mặt hàng toàn cầu tương đối có thể thay thế được, nên phần lớn xuất khẩu dầu thô của Nga sang châu Âu và các nước G-7 tham gia khác có thể sẽ bị gửi đi nơi khác. Điều đó sẽ giải phóng các nguồn cung cấp khác từ các nguồn như Na Uy và Ả Rập Xê Út để được chuyển hướng trở lại châu Âu.
Tuy nhiên, rõ ràng là Nga đang gặp khó khăn trong việc chuyển hướng bán dầu thô của mình. Khi chiến sự tại Ukraine diễn ra, các nhà máy lọc dầu châu Âu bắt đầu tránh xa hàng hóa giao ngay vì lo ngại rằng các lệnh trừng phạt có thể sắp xảy ra.
Ấn Độ đã mua các lô hàng thô của Nga đã được vận chuyển trên biển với mức chiết khấu mạnh. Các thị trường có thể sẽ phản ứng với mức trần của dầu G-7 bằng cách giảm giá thêm dầu thô của Nga. Trước đây, chúng ta đã thấy mô hình tương tự khi các quốc gia trừng phạt dầu của Venezuela và Iran: Các quốc gia đó vẫn tìm được người mua, nhưng giá thì giảm.
Các lệnh cấm vận năng lượng của phương Tây sẽ gây thiệt hại cho chính quyền Nga và phải đợi vài năm tới những tác động này mới phát huy hiệu quả. Trong ngắn hạn, châu Âu và phần còn lại của thế giới có nhiều thứ để mất hơn.
Căng thẳng ở Ukraine đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng giá nhiên liệu châu Âu bắt đầu vào năm ngoái do tình trạng thiếu hụt khi thế giới nổi lên sau đại dịch. Hiện tại ở châu Âu, 1 MWh khí đốt tự nhiên có giá gần gấp 10 lần so với cách đây một năm.
Các lệnh trừng phạt đối với năng lượng của Nga sẽ đẩy giá cao hơn trên toàn cầu và lo ngại rằng chúng có thể khiến giá khí đốt tự nhiên tăng vọt 51% ở châu Âu, và thực tế là dầu thô vượt ngưỡng 110 USD/thùng - mức cao nhất trong 7 năm qua.
Ít nhất trong trung hạn, xung đột tại Ukraine là một bước ngoặt đối với xuất khẩu dầu và khí đốt của Nga. Các quan chức châu Âu cho biết họ sẽ công bố một chiến lược để giảm sự phụ thuộc vào năng lượng của Nga càng nhanh càng tốt, bao gồm mục tiêu giảm 40% việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch vào năm 2030.
Châu Âu thực sự ảnh hưởng đến lĩnh vực năng lượng của Nga. Maria Pastukhova, chuyên gia về địa chính trị năng lượng tại Berlin, Đức, cho biết, nước này mua hơn 70% khí đốt tự nhiên và lệnh cấm vận của khối sẽ có tác động hệ thống "rất nghiêm trọng" đối với các công ty năng lượng nhà nước của Nga trong vòng vài năm, theo nhóm nghiên cứu khí hậu E3G.
Nhưng việc cắt đứt việc Nga bán dầu và khí đốt cho châu Âu sẽ không "ngay lập tức chuyển thành thiệt hại hữu hình cho Điện Kremlin", bà nói. Đó là bởi vì Nga đã tích lũy được dự trữ ngoại hối cao nhất mọi thời đại là 630 tỷ USD, một phần nhờ vào giá hàng hóa cao trong năm qua khi thế giới xuất hiện sau Covid-19. Các khoản dự trữ, kết hợp với khoản nợ có chủ quyền cực thấp của Nga, sẽ cách ly quốc gia này khỏi nhiều gánh nặng kinh tế mà phương Tây cố gắng gây ra trong vài tháng tới.
THIẾU NGUỒN CUNG KHÍ ĐỐT TỰ NHIÊN CỦA NGA, KINH TẾ CHÂU ÂU RA SAO?
Trong một thời gian ngắn, kinh tế châu Âu hoàn toàn không bị ảnh hưởng nếu Nga dừng cung cấp dầu. Kể từ khi căng thẳng bắt đầu gia tăng với Nga vào cuối năm ngoái, các nhà lãnh đạo châu Âu đã làm việc để điều phối việc tăng cường nhập khẩu khí tự nhiên lỏng (LNG), một dạng nhiên liệu hóa lỏng có thể được vận chuyển từ rất xa, từ Mỹ và Qatar.
Tuy nhiên, sự gián đoạn tạm thời đối với hoạt động thương mại khí đốt giữa châu Âu và Nga - do một trong hai bên gây ra - sẽ trở thành một cuộc xung đột căng thẳng giữa hai nước. Massimo Diodoardo, Phó Chủ tịch phụ trách bộ phận nghiên cứu khí đốt toàn cầu của Công ty tư vấn năng lượng Wood Mackenzie, cho biết: "Nga sẽ mất hàng tỷ USD doanh thu từ khí đốt mỗi tháng. Nhưng đối với châu Âu, trong thời gian dài nếu không có khí đốt của Nga, rất có thể họ sẽ phải đối mặt vói nguy cơ thiếu khí đốt trong mùa đông năm sau. Đến lúc đó, họ bắt buộc phải cắt giảm nhu cầu". Điều này có nghĩa là phải hạn chế việc sử dụng khí đốt ở một số quốc gia.
Việc châu Âu để giảm nhu cầu về khí đốt của Nga chỉ có thể trong ngắn hạn. Mặc dù các lô hàng LNG có thể đang được cải thiện ngay từ bây giờ nhưng châu Âu có thể phải vật lộn để giữ lượng nhập khẩu này ở mức cao hiện tại khi thời tiết lạnh và nhu cầu quay trở lại châu Á. Và các dự án năng lượng tái tạo mà châu Âu muốn triển khai để thay thế khí tự nhiên (và giảm phát thải khí nhà kính) sẽ không sẵn sàng trong một sớm một chiều.
Các nhà phân tích cho biết tất cả điều này có thể bắt đầu thay đổi trong vòng 3-5 năm tới. Cuộc khủng hoảng Ukraine đã buộc châu Âu phải tính đến các mối liên hệ năng lượng trong tương lai với Nga. Trong chiến lược sắp tới của họ nhằm loại bỏ khí đốt của Nga ở châu Âu, các nhà lãnh đạo dự kiến sẽ tạo ra các quy tắc mới bắt buộc các công ty phải lấp đầy các cơ sở lưu trữ trong mùa hè để tránh tình trạng thiếu hụt vào mùa đông và đặt ra các mục tiêu tham vọng hơn để giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong vài năm tới. Điều đó sẽ yêu cầu các quốc gia thành viên đẩy mạnh chi tiêu cho năng lượng tái tạo và cải thiện khả năng cách nhiệt trong các tòa nhà cũng như các trang bị hiệu quả khác.
GIÁ DẦU TOÀN CẦU, KINH TẾ NGA TRONG DỰ BÁO
Giá dầu sẽ phụ thuộc vào những biện pháp mà các chính phủ thực hiện để phản ứng lại việc định tuyến lại hoạt động xuất khẩu dầu của Nga. Các quốc gia đang hành động để chuẩn bị cho thị trường toàn cầu thay đổi dòng khí đốt tự nhiên hóa lỏng trong trường hợp giảm mua từ Nga.
Các thủ phủ dầu mỏ khác có thể sẵn sàng xuất khẩu nhiều dầu hơn để giảm bớt sự gián đoạn hoạt động bán dầu thô từ Nga. Hầu hết nhà xuất khẩu đều đạt sản lượng dầu thô tối đa, nhưng một số nhà sản xuất lớn nhất Trung Đông có thể tăng sản lượng trong thời gian ngắn để đưa thêm 1 triệu thùng mỗi ngày hoặc hơn vào thị trường.
Mối quan hệ Mỹ - Ả Rập Xê Út có thể phải đối mặt với một thử thách. Riyadh, thủ đô của Ả Rập Xê Út, có quyền tiếp cận các kho dự trữ dầu thô lớn trong hệ thống bể chứa toàn cầu rộng lớn và các tàu chở dầu nổi trên biển. Năm 2014, khi Nga sáp nhập Crimea, các đồng minh của Mỹ ở Vịnh Ba Tư đã cất giữ hơn 70 triệu thùng gần Fujairah thuộc Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Họ làm điều này như một lời đe dọa đối với Nga rằng một cuộc chiến tranh giá cả sẽ xảy ra nếu quân đội Nga di chuyển ra ngoài bán đảo đó.
Ả Rập Xê Út đã tiến hành các cuộc chiến tranh giá cả gây tổn hại cho nền kinh tế Nga vào các năm 1986, 1998, 2009 và một lần nữa trong một thời gian ngắn vào năm 2020. Nhưng điều kiện thị trường dầu ngày nay khiến chiến tranh giá cả không thể xảy ra, do sự cân bằng chặt chẽ hiện có giữa cung và cầu. Kịch bản duy nhất có thể gây ra một cuộc chiến giá cả lúc này là nếu nhu cầu toàn cầu giảm đột ngột vì suy thoái.
Nền kinh tế của Nga dự kiến sẽ rơi vào một cuộc suy thoái sâu hơn so với cuộc suy thoái do đại dịch Covid-19 gây ra bởi các lệnh trừng phạt của phương Tây. Các nhà kinh tế cho biết những trừng phạt nhằm vào các ngân hàng và công ty Nga của Mỹ, EU, Anh và các đồng minh của họ đang có tác động nghiêm trọng đến thị trường tài chính ở Moscow và sẽ gây ra nhiều thiệt hại hơn cho nền kinh tế rộng lớn hơn của Nga theo thời gian.
Các nhà phân tích tại Goldman Sachs đã thay đổi dự báo tổng sản phẩm quốc nội của Nga trong năm nay từ mức tăng trưởng 2% sang mức giảm 7%. Nền kinh tế Nga ước tính đã tăng trưởng 4,5% vào năm ngoái sau khi giảm gần 3% vào năm 2020, năm tồi tệ nhất của đại dịch đối với nền kinh tế toàn cầu.
Chiến sự đã làm tăng giá năng lượng toàn cầu - đe dọa làm trầm trọng thêm tình trạng ép giá sinh hoạt ở một số quốc gia, bao gồm cả Vương quốc Anh, nhất là chiến sự xảy ra trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu vẫn đang phục hồi sau đại dịch.
Giá dầu tăng lên hơn 111 USD/thùng ngày 2/3, mức cao nhất kể từ năm 2014, do triển vọng nguồn cung từ Nga bị gián đoạn khiến thị trường năng lượng tăng mạnh hơn nữa. Nga là nước xuất khẩu dầu lớn thứ hai thế giới và lớn nhất về khí đốt tự nhiên. Nếu những đợt tăng giá dầu và khí đốt gần đây được duy trì, các nhà kinh tế dự báo lạm phát cao hơn sẽ ảnh hưởng đến các hộ gia đình và doanh nghiệp, đồng thời gây ra sự suy thoái ở các nền kinh tế trên toàn thế giới.
Các nhà phân tích tại công ty tư vấn Oxford Economics cho biết áp lực lên thị trường tài chính Nga sẽ gây thiệt hại đáng kể cho GDP của Nga, và cảnh báo rằng một cuộc chiến kéo dài đến năm 2023 với các lệnh trừng phạt cứng rắn hơn từ các chính phủ phương Tây và việc Nga trả đũa bằng cách hạn chế nguồn cung cấp khí đốt sẽ khiến GDP Nga giảm mạnh hơn 7% trong năm tới.