Xứ Thanh - một vùng đất khá “đặc biệt”
(Dân trí) - Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, xứ Thanh là mảnh đất lưu lại nhiều dấu ấn đậm nét về lịch sử và văn hoá. Nếu như sông Hồng mở ra nền văn minh của dân tộc Việt ở phía Bắc, thì sông Mã quê Thanh với dòng chảy bắt đầu từ văn hoá đồ đá cũ (núi Đọ) tới nền văn hoá đá mới (Đa Bút), văn hoá tiền kim khí (Gò Trũng, Hoa Lộc) làm nên nền văn hoá Đông Sơn - đồ đồng, góp phần làm cho văn hoá Việt phát triển rực rỡ.
Nơi “chuyển tiếp” những nền văn hóa...
Theo GS Trần Quốc Vượng: “Xứ Thanh là vị trí địa - chiến lược, địa - chính trị, địa - văn hoá quan trọng của Việt Nam”. Xứ Thanh miền đất gợi về quá khứ hào hùng từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc, một miền văn hoá nguồn cội. Lịch sử đã chọn xứ Thanh ở vào vị trí khá “đặc biệt” của đất nước. Là điểm cuối của Bắc Bộ và đầu Trung Bộ lại còn là vùng Tây Bắc nối dài, có rừng, có đồng bằng, có biển và những doi cát chạy dài. Ở vào vị trí mở, cửa ngõ vào Nam ra Bắc và cũng là điểm dừng chân trên đường hàng hải quốc tế. Chính những yếu tố về địa lý, tự nhiên đã đem đến cho mảnh đất này sự giao lưu, tiếp nhận và ảnh hưởng với các nền văn hoá khu vực và quốc tế.
Qua các đợt khảo cổ, khai quật và những di vật phát hiện được từ lòng đất, lòng biển, bia ký cho biết, văn hoá: Ấn - Hoa - Chăm... đã từng xuất hiện và hoà nhập với văn hoá, tín ngưỡng bản địa. Tuy vậy, yếu tố văn hoá ngoại nhập không làm cho văn hoá bản địa bị biến dạng, trái lại văn hoá bản địa bao giờ cũng mang tính trội, giao lưu với văn hoá bên ngoài, làm cho văn hoá bản địa du nhập thêm những yếu tố mới phù hợp với tâm hồn, tình cảm con người nơi đây.
Có thể nói xứ Thanh là một trong những cái nôi của những giá trị văn hoá phi vật thể của người Việt và của đồng bào các dân tộc thiểu số còn lưu lại đến ngày nay đậm nét. Trong kho tàng truyền thuyết, truyện cổ bắt gặp cây Thần như cây Si trong mo Đẻ đất đẻ nước của người Mường cành ngả ra tới đâu thành bản thành làng tới đó. Hệ thống các nhân vật khổng lồ như: Ông Bưng, ông Lau, ông Vồm, ụng Nưa... đội đá vá trời, khai sinh ra sông ngòi, ruộng đồng tươi tốt của người Việt; đó là ông Thu Tha bà Thu Thiên của người Mường; ải Lậc Cậc, Khăm Panh... của người Thái lập nên những chiến công và kỳ tích phi thường, sáng tạo ra muôn vật, dạy cách trồng trọt, truyền nghề, đánh đuổi kẻ thù bảo vệ cuộc sống...
Qua quá trình lao động, người dân xứ Thanh từ xa xưa đã đúc rút và tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống, được họ ghi nhớ và trao truyền cho các thế hệ sau bằng những câu tục ngữ, thành ngữ cô đọng: Con gái không bỏ lứa tằm tháng ba/ Con trai không bỏ trận mưa tháng tám. Hay: Nói nhau đừng nói nặng/ Mắng nhau đừng mắng đau/ Đời có lúc thương nhau trở lại...
Vốn tri thức dân gian, kinh nghiệm trong cách ứng xử, quan hệ không chỉ đối với con người với nhau mà giữa con người với thiên nhiên cũng được đồng bào các dân tộc rất coi trọng: Biển khơi là mẹ, cánh buồm là cha; hay: Sống vì rừng, chết cũng vì rừng...Dân gian còn tích luỹ và truyền dạy về các tri thức chữa trị các chứng bệnh bằng cây thuốc cỏ, cách phòng trị bệnh theo mùa...
...Và hội đủ các tín ngưỡng, tôn giáo
Sông Mã, sông Chu không chỉ mang lại dòng nước mát lành và sa bồi tươi tốt cho những ruộng lúa, nương ngô mà trên dòng sông ấy đã ngân vang những câu ca thiết tha đằm thắm, chứa chan sâu nặng nghĩa tình về tình người và đất. Đồng bào các dân tộc thiểu số bao đời nay cư trú trên đôi bờ sông soi hình bóng núi có vốn trí thức văn hoá văn nghệ dân gian đặc sắc và phong phú như: Khặp (Thái), Xường, Đang, Bọ mẹng (Mường), Pả dung (Dao), hỏt Gầu (Mụng)... là lời ca phản ánh điệu hồn của họ với nhiều cung bậc tình cảm thiết tha mà đằm thắm.
Người Việt với nhiều làn điệu dân ca phong phú và đặc sắc như: hát giao duyên, dân ca nghi lễ, hát đối đáp, hát ru ... ở miền quê nào cũng có. Sông Mã không chỉ chảy qua địa phận Thanh Hoá, song không ở đâu lại có điệu hò sông Mã diễn tả tình cảm của người dân lao động, của những đôi lứa yêu nhau như ở đất này: Câu hò ướt đẫm mồ hôi/ Bao đời vẫn đẩy trăng trôi với thuyền.
Cùng với các làn điệu dân ca, dân vũ ở xứ Thanh cũng không kém phần phong phú và đặc sắc. Nói đến trò diễn người Kinh phải kể đến: múa đèn (Đông Anh, Thiệu Quang), trò Xuân Phả, trò Tiên Cuội, trò Chuộc (múa rối), trò ngũ Bôn, trò Thuỷ, trò Thiếp ... đồng bào Thái có múa quạt, múa nón, trò diễn Kin Chiêng boọc mạy, đồng bào Mường có múa Pồng pông, người Dao có múa rùa, múa bát, người Mông có múa Ô, múa Khèn..., các trò diễn là cơ sở để hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu bác học sau này. Chính chèo và hát bội đều bắt nguồn từ tục chèo thờ làng Mưng, hát bội làng Quỳ Chử, hát bội làng Tòng Tân...
Âm nhạc dân gian của đồng bào tỉnh Thanh Hóa chứa đựng nhiều sắc thái tình cảm: Đồng bào Mường có âm nhạc cồng chiêng, đàn đỉnh; người Thái có khua luống, trống chiêng; người Mông có kèn lá, kèn môi, khèn; người Kinh sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ dây, gõ, hơi ...với các cung bậc tình cảm phong phú.
Về văn hoá tín ngưỡng, xứ Thanh gần như hội đủ các tín ngưỡng và tôn giáo bản địa cũng như ngoại nhập. Tiêu biểu là thờ các vị anh hùng dân tộc, thờ thành hoàng, thờ đá, thờ cây, thờ mẫu... xuất hiện khá rõ nét. Đặc biệt nơi đây có các tôn giáo tín ngưỡng độc đáo như: Tục thờ thần Núi , thờ Mẫu Liễu Hạnh, Tứ vị Thánh Nương, Đông Hải Đại Vương, Thần Độc Cước với nhiều điểm thờ. Không nơi đâu như xứ Thanh lại xuất hiện Nội đạo An Đông được vua Lê, chúa Trịnh phong là nội đạo chính tông.
Mỗi làng quê xứ Thanh đều gắn với một địa danh lịch sử. Với 1.535 di tích, ở đó không chỉ chứa đựng những giá trị văn hoá vật thể quí giá và đặc sắc, mà chính ở các di tích này còn tiềm ẩn nhiều giá trị văn hoá phi vật thể tiêu biểu như: Thần tích, huyền thoại, tục ngữ, ca dao, lễ tục, lễ hội, văn hoá ẩm thực... gắn với các nhân vật được thờ phụng, qua đó giúp cho nhân dân nhận thức từ tầm vóc kỳ vĩ của những người anh hùng có tên và không tên, chính họ đã làm nên và tô đẹp cho truyền thống dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc trên đất xứ Thanh.
Những năm gần đây với sự quan tâm, chỉ đạo và đầu tư của Trung ương và của tỉnh, các dự án và công trình nghiên cứu văn hoá như: Tục hát chèo thờ làng Mưng, hò sông Mã, dân ca Đông Anh, múa Xuân Phả, lễ hội Cầu Ngư, lễ hội Lam Kinh... của người Kinh; trò diễn Pồn Pông, những bài ca trong đám cưới, dân ca, tục ngữ, trò diễn trong đám cưới người của người Mường; trò diễn Kin chiêng boọc mạy của người Thái, lễ tục trong đám cưới của người Mông, lễ cấp sắc của người Dao... đã được nghiên cứu, in thành sách, ghi hình ảnh và dựng thành phim để lưu giữ, giới thiệu và phổ biến sâu rộng trong nhân dân. Các ngày hội văn hoá dân tộc và Liên hoan văn nghệ, hội diễn, tổ chức "Làng vui chơi, làng ca hát" khôi phục và phát huy được nhiều làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc trong quần chúng nhân dân, huy động sự tham gia và truyền nghề của các nghệ nhân dân gian.
Việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá phi vật thể để phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH đất nước trên quê hương xứ Thanh càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Những giá trị văn hoá đặc sắc trải qua hàng nghìn năm đã góp phần hình thành và tạo nên tính cách con người xứ Thanh anh dũng, quật cường, vượt lên gian khó để chiến thắng thiên tai và các thế lực bạo tàn, song lại thấm đẫm tính nhân văn, giàu đức hy sinh vì nghĩa lớn, vì sự trường tồn của dõn tộc. Những giá trị văn hoá đó cần được bảo tồn và phát huy tốt hơn nữa trong thời kỳ đổi mới, hội nhập hôm nay và mai sau.
TS. Hoàng Minh Tường
(Phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa)