Bãi lầy chiến địa Afghanistan: 10 năm binh lửa không có người chiến thắng
Các chiến binh Mujahideen coi việc người Cơ đốc giáo hay "người Xô viết vô thần" kiểm soát Afghanistan là một điều báng bổ Hồi giáo cũng như văn hóa truyền thống của họ, vì thế khi tuyên cáo một cuộc "jihad" (thánh chiến), nghiễm nhiên họ đã giành được sự ủng hộ của thế giới Hồi giáo.
Chống lại quân đội Liên Xô, các Mujahideen sử dụng chiến thuật du kích: Họ tổ chức tấn công hoặc đột kích chớp nhoáng, sau đó rút vào trong các ngọn núi, thung lũng... gây tổn thất lớn cho đối phương mà không cần phải đối đầu trực tiếp. Các nhóm Mujahideen thường chỉ từ 3-5 người.
Sau khi nhận nhiệm vụ tiêu diệt một ai đó trong chính phủ, họ bỏ nhiều thời gian nghiên cứu thói quen và các chi tiết về đời sống của người đó để tìm ra phương pháp hoàn thành nhiệm vụ thích hợp nhất. Họ ám sát từ trên ôtô, bắn vào ôtô, đặt mìn tại các cơ sở hay tòa nhà chính phủ, thậm chí dùng tới phương cách cổ xưa là thuốc độc. Quân du kích sử dụng mọi khí tài họ giành được từ phía Liên Xô hay được Hoa Kỳ viện trợ.
Tháng 3-1982, một quả bom phát nổ tại Bộ Giáo dục, làm hư hại nhiều tòa nhà. Cùng trong tháng đó, tình trạng thiếu điện lan rộng tại Kabul khi một cột điện cao thế dẫn từ nhà máy điện Naghlu bị đặt mìn phá hủy. Tháng 6-1982, một đội khoảng 1.000 đảng viên trẻ được gửi tới làm việc tại thung lũng Panjshir đã bị phục kích ở vị trí 20 dặm ngoài Kabul, với thiệt hại nhân mạng to lớn. Ngày 4-9-1985, quân nổi dậy bắn hạ một máy bay nội địa thuộc Bakhtar Airlines khi nó cất cánh từ sân bay Kandahar, 52 người thiệt mạng...
Mùa đông năm 1980, đã có các đơn vị tương đối lớn hoạt động chống quân đội Xô viết (100-150 phiến quân hoặc nhiều hơn nữa). Ví dụ, ngày 12-1-1980, các phân đội Xô viết đã bị một đội kỵ binh quân số đến 1.000 người tấn công. Ngày 21-1 là đội 500 kỵ binh. Tại thời điểm đó, những kẻ nổi loạn hiếm khi né tránh đối đầu trực tiếp với quân đội Liên Xô. Chỉ huy một trung đoàn Xô viết ghi nhận: "Trong trận đánh, kẻ thù thể hiện sự đặc biệt ngoan cường, tuy có thể phân tán thành những nhóm nhỏ, nhưng các phiến quân đã không sử dụng điều này, mà chiến đấu cho đến khi bị tiêu diệt hoàn toàn".
Tháng 5-1985, bảy tổ chức nổi dậy chính đã thành lập Liên minh bảy đảng Mujahideen để phối hợp các chiến dịch chống quân đội Liên Xô. Cuối năm 1985, các nhóm hoạt động mạnh cả trong và ngoài Kabul. Tình thế cuộc chiến được nâng lên một tầm với sự ra đời của các loại tên lửa phòng không vác vai của Mỹ năm 1987. Thế hệ tên lửa Stinger đã cho phép các Mujahideen thường xuyên bắn hạ máy bay và trực thăng Liên Xô.
Tháng 11-1987, Tập đoàn quân số 40 của Quân đội Liên Xô dưới quyền tướng Boris Vsevolodovich Gromov bắt đầu Chiến dịch Magistral để mở đường từ thành phố Gardez (thủ phủ tỉnh Paktia) tới thành phố Khost (thủ phủ tỉnh Khost) gần biên giới Pakistan. Thành phố Khost đã bị cô lập trong nhiều tháng bởi lực lượng Mujahideen do Jalaluddin Haqqani chỉ huy, các chuyến hàng tiếp tế lương thực và thuốc men muốn đến được thành phố này chỉ có thể thực hiện bằng đường hàng không.
Các cuộc đàm phán đã được thực hiện với bộ lạc Jadran ở địa phương cũng như với Haqqani, tuy nhiên không thu được bất kỳ kết quả nào do Haqqani muốn kiểm soát thành phố và biến nó thành lãnh địa của một bang độc lập cũng như làm cơ sở cho việc thâm nhập sâu hơn vào các vùng khác trong tương lai. Trước khi chiến dịch Magistral bắt đầu, đã có một chiến dịch tuyên truyền rộng rãi, với một đài phát thanh đặc biệt được thành lập, để kêu gọi người dân Jadran ngừng hỗ trợ quân Mujahideen và rời khỏi khu vực chiến sự.
Ngay cả trong lúc tiến hành đàm phán, một kế hoạch tác chiến chi tiết đã hình thành. Sau khi cuộc đàm phán cuối cùng thất bại, cuộc tiến công bắt đầu được khởi động. Chiến dịch đã huy động các sư đoàn bộ binh cơ giới 108 và 201 cùng 2 lữ đoàn bộ binh không vận: Lữ đoàn 345 và Lữ đoàn 56. Họ còn được hỗ trợ bởi năm sư đoàn bộ binh và một sư đoàn thiết giáp của chính phủ Afghanistan.
Ngày 28-10-1987, một cuộc đổ bộ đường không giả được thực hiện trong khu vực quân Mujahideen kiểm soát, các hình nộm mặc quân phục được thả dù xuống; nhờ đó, một máy bay trinh sát đã phát hiện và truyền về tọa độ các vị trí của phiến quân cho không quân Liên Xô.
Một trong những vị trí quan trọng nhất là ngọn đồi không tên được xác định trên bản đồ: Cao điểm 3234, được giao cho Đại đội 9 của Lữ đoàn Không vận Độc lập 345. Đại đội 9 chỉ có 39 binh sĩ đã đổ bộ lên đỉnh đồi trên vào ngày 7-1- 1988, với trách nhiệm thiết lập và chốt giữ một tiểu cứ điểm trên đỉnh đồi để từ đó quan sát và kiểm soát một đoạn dài của con đường bên dưới, đảm bảo an toàn cho các đoàn xe tiếp vận của quân đội Liên Xô. Vừa ngay sau khi hoàn thành tuyến công sự phòng thủ, quân Mujahideen bắt đầu cuộc tấn công lúc 15 giờ 30 phút chiều cùng ngày.
Đây là đợt tấn công đầu tiên khởi đầu cho một chuỗi 12 đợt tấn công đẫm máu, có những lúc cả hai bên đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê, dao găm và mọi thứ có thể, liên tiếp cho đến ngay trước bình minh ngày hôm sau (3 giờ ngày 8-1), khi quân Mujahideen rút lui, điểm cao 3234 vẫn trong tay lính dù Liên Xô. 39 lính dù Liên Xô phải chống lại từ 300-500 chiến binh Mujahideen có kinh nghiệm chiến đấu và được trang bị tốt.
Các đợt tấn công được chia thành hai hướng rất bài bản, điều này chỉ ra rằng đối phương có thể đã được hỗ trợ bởi phiến quân được huấn luyện ở Pakistan. Đại đội 9 có 34 người thương vong, trong đó có 6 người hy sinh và 28 người bị thương, đạn dược gần cạn sau cuộc tấn công cuối cùng. Còn phía Mujahideen, theo ước tính của phía Liên Xô, thương vong hơn 200 người.
Ngày nay trên khắp đất nước Afghanistan, có khá nhiều vũ khí Quân đội Liên Xô còn nằm lại dù hơn 37 năm đã trôi qua kể từ sau khi Liên Xô rút quân vào tháng 2 -1989. Một trong những nơi ghi dấu đậm nét nhất chính là thung lũng Panjshir, vùng đất màu mỡ tuyệt đẹp cách thủ đô Kabul 100 dặm.
Nơi đây cung cấp chỗ trú đóng và nguồn thực phẩm dồi dào cho lực lượng chiến binh Mujaheddin được phương Tây hậu thuẫn chống lại chính phủ Afghanistan "thân Liên Xô". Chính vì thế, Quân đội Liên Xô trong suốt 10 năm đã tiến hành 16 chiến dịch lớn nhắm vào đây. Tuy nhiên, các chiến dịch thường kết thúc trong thất bại, hàng trăm cỗ pháo, xe tăng và những phương tiện khí tài khác còn phơi mình ở thung lũng này đến ngày hôm nay như những chứng tích đau buồn của 10 năm lao vào binh lửa nơi xứ người.
Trong khi quân đội Liên Xô ngày càng bị cuốn sâu hơn vào các chiến dịch phòng thủ, đối đầu... thì các khoản viện trợ nước ngoài dành cho các lực lượng thánh chiến ngày càng được khuếch trương. Trên thực tế đã hình thành cả một liên minh mà trong đó có vũ khí, cơ quan tình báo và bộ máy tuyên truyền của Mỹ, tiền bạc của Arabia Saudi và các "tình nguyện viên" của cả thế giới Hồi giáo tham gia cuộc "thánh chiến" chống lại chính quyền Kabul và quân đội Liên Xô.
Những người thuộc các bộ tộc Tadjik, Pashtun, Uzbek và Khazares của Afghanistan đã từng bắn giết lẫn nhau trước khi quân đội Liên Xô hiện diện ở đất nước này và người Mỹ đã làm tất cả để cuộc chiến tranh Afghanistan kéo dài càng lâu, càng tốn kém, càng tổn thất nhiều sinh mạng của Liên Xô càng tốt. Hơn 600.000 người lính phục vụ thông qua "đội quân Xôviết hạn chế", 15.000 người đã hy sinh, người Mỹ đã bỏ ra một vài triệu USD viện trợ cho lực lượng thánh chiến - nhưng đã không một ai chiến thắng trong cuộc chiến tranh này.
Khi Mikhail Gorbachev nắm được vị trí quyền lực cao nhất trong hệ thống chính trị Xôviết, ông ta muốn quân đội Liên Xô triệt thoái khỏi Afghanistan theo cách nào đó để nó trông giống như là một thỏa thuận dàn xếp chứ không phải là một thất bại. Tại hội nghị Bộ Chính trị diễn ra vào ngày 17-10-1985, Gorbachev tuyên bố rằng, ông ta đã "đạt được sự đồng nhất" với Babrak Karmal và nhà cầm quyền Afghanistan, và rằng tới mùa hè năm 1986, người Afghanistan sẽ phải học cách "làm thế nào để tự bảo vệ cuộc cách mạng của chính họ".
Anatoliy Chernyaev, Phó trưởng Ban Đối ngoại Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và là người, từ tháng 2-1986, chuẩn bị trở thành trợ lý chính về chính sách đối ngoại cho Gorbachev, cũng có mặt tại hội nghị Bộ Chính trị đó kể lại: Gorbachev đọc to "một số bức thư thống thiết" từ những người mẹ của các binh sĩ Liên Xô đã phục vụ, và một số đã hy sinh, ở Afghanistan. Gorbachev dùng yếu tố tình cảm trong nỗ lực thuyết phục Bộ Chính trị rằng, sự hiện diện của Liên Xô tại Afghanistan là một sai lầm rất lớn.
Ông kết thúc bài tham luận với câu nói: "Có hay không có Karmal, chúng ta sẽ vững chắc theo đuổi con đường này, tức phải dẫn đến sự rút lui của chúng ta khỏi Afghanistan trong một khoảng thời gian ngắn tối thiểu".
Vào cuối năm 1979, khi quân đội Liên Xô tiến vào Afghanistan, Ban lãnh đạo tối cao Liên Xô tin rằng, chuyện can thiệp quân sự sẽ không phải kéo dài. Khi đó, nhiệm vụ chính là giúp quân đội Afghanistan duy trì sự ổn định trong nước vào những tháng đầu tiên sau khi lật đổ chế độ cầm quyền bằng bạo lực của Hafizullah Amin.
Thế nhưng sự can thiệp ấy đã kéo dài 10 năm khiến đất nước Afghnistan chưa bao giờ biết đến phồn vinh, mà càng thêm kiệt quệ, đất nước Liên Xô sa vào bãi lầy tồi tệ nhất của cuộc Chiến tranh lạnh và chỉ có thể chứng kiến người lính Xô viết cuối cùng rời khỏi vùng chiến địa khốc liệt Afghanistan vào ngày 15-2-1989.
Năm 2011, xuất hiện trong cuộc phỏng vấn của hãng CNN, Tổng thống Nga Putin khi trả lời câu hỏi của "ông hoàng phỏng vấn" Larry King: "Afghanistan đối với Liên Xô có gì khác Việt Nam với nước Mỹ?", dù phủ nhận sự so sánh (bằng lời nhắc nhở rằng, quân đội Liên Xô đã triệt thoái một cách có tổ chức và an toàn, chế độ tại Kabul còn duy trì được 3 năm - khác hẳn với người Mỹ, đã tháo chạy khỏi Sài Gòn cùng với chính quyền Việt Nam Cộng hòa), vẫn nói rằng: "Liên Xô đã mắc nhiều sai lầm tại đó, và sai lầm chủ yếu nhất là, quân đội Xô viết đã có mặt tại đó. Lẽ ra chúng tôi đã không nên làm điều này. Đây là một sự thật rõ ràng".
Tháng 5-2015, Lần đầu tiên chính quyền Liên bang Nga công khai thừa nhận những điều lẽ ra cần phải được nói một cách công khai và trung thực từ lâu: Cuộc chiến tại Afghanistan không phải là một sự phiêu lưu và hành động thiếu lý trí. Tại cuộc gặp các cựu chiến binh Afghanistan, Tổng thống Putin dùng những lời đầy trọng thị: "Chúng ta cần phải và luôn nhớ tới những người đã bảo vệ các lợi ích của Tổ quốc chúng ta trong lịch sử hiện đại. Những binh đoàn cùng những người lính đã hành động vì yêu cầu thực hiện mệnh lệnh quân sự - và họ đã làm điều này vì danh dự".
Theo Quang Hiếu (tổng hợp)
An ninh thế giới