Nhớ một mùa lá tre về

(Dân trí) - "... Và vẫn chiếc áo nâu sờn khâu bao lần chỉ, một tay cầm chổi rễ cùn, tay kia bà kéo lê chiếc bao tải cũ mèm len lỏi khắp các búi tre. Bà luồn bàn tay nâu sạm, đầy những đường gân vơ từng chiếc lá. Tôi chạy theo bà, thi thoảng cũng bẻ được vài cành củi rồi lại biến tót ngay để mặc bà nhặt mùa thu mang về..."

Quê tôi có nhiều loại cây lắm: Cây mít, cây trôi, cây quéo… Mỗi độ bão tràn về, thế nào sáng ra cũng có dăm cây cổ thụ đổ vật xuống, chắn kín đường làng. Tôi hỏi bà tôi: “Bà ơi! Sao chúng lại bị đổ hả bà?”. Bà bảo tôi rằng: “Vì chúng chỉ đứng đơn độc cháu ạ!”. Tôi “À” một tiếng rõ to rồi phóng mắt nhìn ra xa, rặng tre ngoài kia quấn chặt lấy nhau vẫn đứng hiên ngang trong gió.

Cây tre quê tôi cao vút, được ghép lại bởi hàng chục đốt xanh ngắt mỡ màng nhưng cũng có khi vàng óng ả. Lũ trẻ chúng tôi phân loại từng rặng tre: Búi tre ông Nghi, búi tre ông Đản, tre ngộc, tre hóp…Búi tre ông Nghi gày xơ xác. Nó thấp lè tè nhưng chắc đến đanh lại. Cứ mỗi mùa quả đay đến vụ, quả xoan ương sắp chín hay thậm chí sang cả mùa cơm nguội, trưa nào lũ trẻ chúng tôi cũng rình mò, lén lút đâu đó quanh khóm tre ít ỏi.

Chỉ lơ một cái, y rằng một cây cũng bị chặt phéng ngay đem về chia nhau làm súng hóp. Thằng nào chẳng may bị bắt, mặt nó xanh lét đến thảm hại bởi ông Nghi, chủ nhà, đã từng nổi tiếng vì thành tích chặt đứt đuôi con bò nhà thằng Tưởng chỉ vì dại dột liếm vài cái lá tre.

Búi tre ngộc được biết đến nhiều hơn cả. Tôi còn đặt cho nó cái tên tre tây. Vì nghe bà kể bọn tây hồi xưa cũng to như tre ngộc vậy. Muốn nhìn thấy ngọn, tôi phải khum khum hai tay, nheo mắt lại. Trên đó chim kéo về hàng đàn vì chẳng mấy khi có người trèo lên được. Mo tre ngộc to như cái quạt nan, vàng xộm, đem bán cho các nhà đan nón phải đắt gấp hai tre thường. Mỗi độ thu về, nhiều đứa có khi chỉ vì tranh nhau cái mo tre mà choảng nhau sứt đầu mẻ trán.


Mùa lá tre về luôn là những thời khắc tuyệt vời của lũ trẻ. (Ảnh: Internet)

Mùa lá tre về luôn là những thời khắc tuyệt vời của lũ trẻ. (Ảnh: Internet)

Tôi hay sang nhà thằng Tưởng lân la xem ông nó làm mọi thứ bằng tre. Khoảng tháng tư, tháng năm hàng năm, lúc bão bắt đầu tràn về, ông ngả bớt những cây tre rìa búi sắp đổ. Sau đó ông ngâm xuống ao đến vụ cá đầu đông. Vào những ngày giá rét, hai thằng tôi ngồi xem ông cắt khúc cây tre như cắt khúc một con lươn khổng lồ vừa kéo được dưới ao lên. Chỉ từ vài khúc tre như vậy ông đã biến hoá ra bao nhiêu thứ: Cái rổ, cái giá, cái giần, cái sàng…

Tôi và nó tích cóp để mua cho ông một cút rượu nhờ ông đan cho cái đó. Nhiều khi, tôi cứ bần thần nghĩ giá như ông tôi còn sống, tôi sẽ mua rượu cho ông tôi chứ nhất định không mua rượu cho ông thằng Tưởng. Mà biết đâu, tôi chả cần phải mua cho ông cút rượu như thằng Tưởng, ông vẫn đan cho tôi cả cái giậm cơ.

Mùa lá tre về, đâu đâu cũng giăng mắc bao chiếc thuyền cong cong, xoay trong gió. Lá tre rụng ào ào như trút, rụng triền miên. Cây tre trút đi chiếc áo để mùa đông đứng xo ro chịu rét.

Và vẫn chiếc áo nâu sờn khâu bao lần chỉ, một tay cầm chổi rễ cùn, tay kia bà kéo lê chiếc bao tải cũ mèm len lỏi khắp các búi tre. Bà luồn bàn tay nâu sạm, đầy những đường gân vơ từng chiếc lá. Tôi chạy theo bà, thi thoảng cũng bẻ được vài cành củi rồi lại biến tót ngay để mặc bà nhặt mùa thu mang về.

Tôi nhớ nhất cái dáng ngồi đun bếp của bà. Bếp thì nhỏ lại ọp ẹp. Mùa hè khói quyện đặc, cay xè mắt. Thế mà bà vẫn ngồi còng gập trên chiếc ghế con đủn đều đặn từng nắm lá tre dọc theo năm tháng. Mùa đông bà dậy từ tinh mơ bắc bếp nhẩn nha luộc cho tôi nồi khoai củ mật. Nhớ ngày ấy, mỗi sáng vùng dậy, tôi không bao giờ chịu mặc quần áo rét ngay mà đánh chiếc quần cộc lao vù qua sân xuống bếp bó gối tựa lưng vào người bà. Ngồi buồn, tôi kiếm cành rào nhỏ phá bĩnh bếp lửa, lúc thì tranh bà đủn lá tre, lúc thì lấy tàn than giết lũ kiến xung quanh. Bà giơ cao que bời cháy nham nhở dứ dứ, tôi chạy biến.

Tay bà thì run run ghê lắm. Ấy thế mà bà băm rau lang nấu cám cho lợn lại chẳng bao giờ bị đứt tay như tôi. Bà bảo tôi: “Nó có cữ rồi”. Tôi gật gật dẫu chẳng biết “cữ” là gì cả. Nhưng bữa cơm bà chan canh khó thực. Nước cứ sóng sánh trực trào ra bên ngoài. Tôi bất ngờ reo lên: “A! Bà chan canh không có cữ nhớ”. Bà bật cười móm mém: “Cha bố anh!”.

Quê tôi ngày ấy tre nhiều vô kể. Tre mọc hàng hàng dãy dãy thành bờ thành bụi che kín khu vườn nhà. Tre mọc chen chúc nhau ở bờ ao hay thậm chí nó còn xô lấn ra mãi phía bờ máng, bờ dộc. Những ngày hanh hao nắng, lá tre rụng tơi bời, ấy là khi cái rét bị xô dạt đi đâu mất. Bà xăng xái moi trong khe chạn bát cái túi nhỏ buộc túm một đầu. Bà bảo “Hôm nay bà cháu mình đi bắt cua”, thế là tôi nhảy tâng tâng, con cón chạy theo bà ra mé Đình.

Bắt cua mùa đông không như những ngày hè nắng đổ lửa. Mùa đông cua đóng mà nằm im thít trong hang. Dọc con máng lệt sệt bùn, những hang cua được bịt kín bằng lớp đất mới vàng tươi chạy một hàng dài. Bà vén ống quần, nhón chân, lội lụp thụp dưới bùn. Tôi hết chạy lăng quăng lại quì gối bên sườn máng xem bà cẩn trọng bóc lớp mà cua, thọc tay vào bên trong. Hoa cỏ may xơ xác ghim kín ống quần tôi. Bàn tay xương xương của bà thoăn thoắt, miệng bỏm bẻm nhai trầu, bà nhẩn nha kể chuyện cho tôi nghe. Nào là chuyện bãi Gia có ma. Bà bảo ngày xưa nhà ông Thắm ở đó, đêm đến là bị dựng ngược giường dậy sau đành phải bỏ vào ở trong làng. Hay chuyện sân Đình thường có ma chơi xanh lét chân dài như cái nạo cỏ…Những câu chuyện vu vơ như thế mà chả bao giờ tôi quên được.

Ai cũng tưởng tre không có hoa. Nhưng không phải, tre cũng có hoa như bao loài cây khác. Hoa nó vàng li ti, cằn cỗi như chính cái tên của nó. Nếu muốn nhìn thấy hoa tre, chắc con người ta phải sống đến hàng thế kỉ.

Bà nội tôi đã yếu không còn đi quét lá tre được nữa. Mỗi lần về quê, thấy người ta đã chặt hết từng búi tre, tôi chợt nhớ da diết một mùa lá tre về.

Nguyễn Anh Thế