Ma làng
(Dân trí) - Nghe các cụ kể ngày trước ở đầu làng có cây đa cổ thụ cành lá xum xuê che rợp cả một khoảng đất rộng mênh mông. Dưới gốc đa có quán nước chè, kẹo lạc, khách hàng của bà Son là mấy bác đi làm đồng hoặc nhưng ai đi xa lỡ độ đường…
Một ngày đầu năm bốn tám bọn Pháp từ trên đồn Nam Tây tràn xuống, bọn địch lùa cả làng ra dưới gốc cây đa, thằng quan hai mặt đỏ như tôm luộc ngồi trên xe jeep hất hàm ra lệnh “bắn”, một tràng tiểu liên khô khốc, xác người đổ ngổn ngang, máu loang thành dòng ngập ngụa cả gốc cây.
Người ta bảo những người đó chết oan nên linh hồn họ thường lẩn quất, vất vưởng không thể siêu thoát được. Kể từ đó dưới gốc đa không còn là chốn yên bình nữa, nó có cái gì đó lạnh lùng kinh hãi, có người còn bảo những hôm mưa phùn lất phất lẫn trong tiếng gió rít trên ngọn đa nghe như có tiếng người la hét, kêu khóc thảm thiết, lúc sau lại có tiếng cười the thé nghe buốt lạnh hết sống lưng…
Sau này bọn địch thiết lập vành đai trắng và tuyến hàng rào điện tử Mcnamara, cây đa bị chúng ném bom na pan cháy trụi. Chỗ cây đa giờ đây là hai chiếc xe tăng cháy nằm lù lù, một chiếc của địch một của ta.
Chiến tranh đã qua nó cũng dần bị chìm vào quên lãng, lau lách mọc um tùm, mỗi lần có cơn gió thổi nghe xào xạc mang theo bao điều huyền bí, kể từ đó những câu chuyện ma quỷ lại được mọi người thoải mái thêu dệt: Có người thề sống thề chết rằng đã từng thấy hai bóng ma lại là ma Mỹ hẳn hoi, hai con mắt như mắt mèo từ trong chiếc xe cháy đi ra. Có đứa lại bảo đã gặp một cô gái mặc áo lụa trắng trong những đêm sáng trăng, có lẽ một cô thôn nữ nào đó đã xung phong đi bộ đội vào binh chủng xe tăng chẳng may hi sinh…. Sau này mới biết lũ nói khoác, đã nghe đơn vị xe tăng nữ nào bao giờ?
Rồi một ngày nọ những tò mò, thắc mắc của lũ trẻ con chúng tôi cũng được giải đáp. Lão Quân chủ tịch xã gọi xe cẩu và xe reo về trục hai chiếc tăng lên bán sắt vụn, chiếc M48 đen trùi trũi gần như còn nguyên vẹn từ tháp pháo đến bánh đà, nước thép còn xanh lét đúng đồ Mỹ có khác, làm mưa làm gió trên chiến trường giờ chỉ còn là đống sắt chờ xẻ từng mảng đem đi bán. Một chút nhói lòng khi chiếc cẩu rú ga giật chiếc tăng thứ hai, “xe của mình”, tiếng ai đó run run, PT76 – tăng lội nước, người hùng Khe Sanh một thuở đây ư? Tháp pháo bay đâu mất nên nó càng thấp thỏi, nhỏ bé…Hai chiếc xe, hai chiến tuyến giờ cùng chung một số phận, bên kia đường lão chủ tịch và tay đầu nậu mặt đỏ gay, tiếng gõ trứng vịt lộn tiếng khui bia Vạn Lực bôm bốp…Nghe đâu trong Đảng ủy và Hội đồng có người phản đối vì hai chiếc xe này là minh chứng cho trận thắng oanh liệt của quê hương nhưng lão chủ tịch “cả vú lấp miệng em”. Với lại lão chẳng lạ lùng gì cái tính ba phải của ông Bí thư, đánh đấm ra trò nhưng làm công tác quản lý quá dở, ai nói gì cũng cười hề hề, lúc nào cũng sợ mất đoàn kết nội bộ thành thử một mình lão thích làm gì thì làm.
Ngã ba xưa giờ đã là mảnh đất mặt tiền, mặt tiền là tiền mặt chả trách người ta đổ xô ra như thế, quán hàng tạp hóa mọc lên, quán nhậu, quán karaoke, tiệm net…Thì ra quê mình đâu kém cạnh gì ai, ý nghĩ ấy, niềm vui ấy vừa chợt lóe lên đã vụt tắt biến… Từ đâu xuất hiện người đàn bà phốp pháp, bà xông thẳng vào tiệm nét chụp cổ một cậu bé trạc mười hai tuổi tát bôm bốp. Ra đến đường cái bà lăn lộn bù lu bù loa “ Trời ơi là trời! Cha phá
đằng cha con phá đằng con, kiểu nay tôi chết quách cho xong còn sống làm gì…”.Trong quán thịt cầy có tiếng người như quát tháo. Lão chủ tịch, không nguyên chủ tịch thì đúng hơn, sau đận “xẻ thịt” hai con tăng uy tín lão suy giảm đôi chút nhưng “cắp vặt quen tay” lão bắt đầu xà xẻo những công trình xây dựng cơ bản, vốn hỗ trợ người nghèo…
Đi đêm lâu có ngày gặp ma, đơn khiếu kiện gửi về Huyện ủy, thanh tra rồi công an lên làm việc, vì giữ uy tín cho lão nên người ta không truy tố nhưng cũng chỉ ngót nhiệm kỳ rồi cho nghỉ.
Từ ngày rớt Hội đồng về vườn lão đâm ra chán nản, suốt ngày uống rượu. Lão hằn học uất hận vì “ chúng nó” tệ bạc. Lão quy tụ một nhóm toàn những thành phần “hảo hán”, từ anh thuế vụ ăn hối lộ bị thải hồi đến anh hàng thịt lợn bất mãn còn lại là những anh nghiện rượu hay lê la “ăn hôi”.
Lão phân công cụ thể “ chú đập thằng này ở điểm này, còn chú đánh thằng kia ở điểm kia”. Mấy vị thèm rượu được một chén đã sáng mắt giờ còn được bác chủ tịch mời, rượu thịt ngập mồm lại còn chỉ ra “con đường tranh đấu” còn gì bằng thứ “ thứ nhất lý trưởng loại ra thứ nhì chăn vịt thứ ba lái bò” không sai chút nào…
Đời lão giờ chỉ còn hai thứ, một là uống hai là kiện. Trước hết lão cho lâu la nhậu xỉn vào quấy rối cuộc họp. Nhiều khi cán bộ ủy ban đành bó tay trước những anh Chí Phèo đời mới lắm lý sự cùn… Đơn kiện giờ xếp ra có lẽ chất cao bằng người lão, ông Chánh văn phòng ủy ban huyện mỗi lần thấy lão lò dò ở cổng là đóng sầm cánh cửa ba chân bốn cẳng chạy như ma đuổi…
Sau mấy ngày phép ngắn ngủi lại phải về thành phố, nhìn hai bên đường những cánh đồng chỉ canh tác một vụ vì không có nước tưới, cỏ dại mọc um tùm mà không khỏi xót xa. Những vùng quê khác khó khăn hơn bao nhiêu vậy mà người ta quyết chí vươn lên còn quê mình thì…
Xa xa lũy tre làng ngả màu xanh thẩm trầm mặc trong ráng chiều như dáng vẻ lầm lũi của người dân quê chất phác hiền lành. Tiếng riết rống của người đàn bà, dáng vẻ liêu xiêu lảo đảo của lão Quân dưới bóng hoàng hôn buông như trào lên một nỗi buồn man mác… Ôi! Quê tôi!
Đình Dũng