Ung thư vú được điều trị như thế nào?

BS Nguyễn Nhật Linh

(Dân trí) - Điều trị ung thư vú là sự kết hợp nhiều phương pháp: phẫu thuật, xạ trị và điều trị nội khoa toàn thân (hóa trị, nội tiết, đích), nhưng cần cá thể hóa theo từng người bệnh.

Tùy theo giai đoạn, thể mô bệnh học, thụ thể nội tiết, thể trạng và bệnh lý phối hợp… của từng bệnh nhân, bác sĩ sẽ có chỉ định áp dụng các phương pháp phù hợp nhằm đem lại hiệu quả điều trị cao nhất và ít gặp tác dụng không mong muốn nhất. 

Các phương pháp điều trị ung thư vú bao gồm:

Phẫu thuật 

Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản trong ung thư vú, đặc biệt ở các trường hợp chưa có di căn xa.

- Phẫu thuật ung thư vú giai đoạn sớm: nhằm lấy bỏ toàn bộ khối u và vét hạch nách. Tùy theo từng bệnh nhân cụ thể, bác sĩ sẽ cân nhắc đưa ra chỉ định phẫu thuật bảo tồn tuyến vú hay phẫu thuật triệt căn tuyến vú (cắt hết toàn bộ tuyến vú). 

Một phương pháp mới được áp dụng để tránh các trường hợp vét hạch không cần thiết là kỹ thuật sinh thiết hạch cửa. Cụ thể, bác sĩ sẽ tiêm các chất chỉ thị để nhận biết được hạch cửa - hạch dẫn lưu bạch huyết đầu tiên của khối u vú, nếu xét nghiệm thấy tế bào ung thư chưa lan đến hạch cửa thì không cần thiết phải vét hạch nách. 

Ung thư vú được điều trị như thế nào? - 1

Ngoài ra, phẫu thuật tạo hình tuyến vú sau khi cắt khối u vú cũng được phát triển, bao gồm: đặt túi ngực, phẫu thuật tạo hình quầng vú và núm vú, đem lại lợi ích về mặt thẩm mỹ cho các bệnh nhân ung thư vú.

- Phẫu thuật ung thư vú giai đoạn tái phát, di căn: đối với ung thư vú giai đoạn tái phát hoặc phẫu thuật cũng có những vai trò nhất định như: cắt bỏ tuyến vú với khối u tái phát tại chỗ hoặc tại hạch nách, phẫu thuật sạch sẽ tuyến vú trong trường hợp u vú to, chảy dich nhiều,..

- Phẫu thuật cắt buồng trứng: áp dụng ở các bệnh nhân ung thư vú chưa mãn kinh, có thụ thể nội tiết dương tính, có nguy cơ tái phát bệnh cao. Phẫu thuật cắt buồng trứng lá một phần của điều trị nội tiết.

Xạ trị

Xạ trị bổ trợ sau phẫu thuật và hóa chất ở các bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm là một phần của quá trình điều trị. Lúc này sau khi cắt tuyến vú, diện thành ngực còn lại được chiếu xạ để loại bỏ các tế bào ung thư còn sót lại về mặt vi thể. Ngoài ra, chỉ định xạ trị sau phẫu thuật bảo tồn ung thư vú là chỉ định bắt buộc, giúp làm tăng thời gian sống thêm cho bệnh nhân.

Xạ trị cắt buồng trứng: cũng là 1 trong 3 phương pháp điều trị cắt buồng trứng nội tiết, giúp bệnh nhân tránh được 1 cuộc phẫu thuật hay dùng thuốc nội khoa lâu dài.

Hóa chất

Điều trị hóa trị trong ung thư vú là phương pháp dùng các loại thuốc độc đối với tế bào, nhằm tiêu diệt các tế bào ung thư trong cơ thể. Đối với mỗi thể bệnh ung thư vú và mỗi giai đoạn bệnh sẽ có những phác đồ hóa chất khác nhau và phù hợp với từng bệnh nhân. Chỉ định điều trị hóa chất cho bệnh nhân ung thư vú chia thành 3 nhóm:        

- Hóa chất bổ trợ trước phẫu thuật

Điều trị hóa chất bổ trợ trước hay còn gọi là tân bổ trợ, được áp dụng cho các bệnh nhân ung thư vú giai đoạn mổ được hoặc không mổ được. Mục đích tân bổ trợ ở giai đoạn không mổ được giúp thu nhỏ kích thước khối u và hạch, nhằm tăng tỷ lệ phẫu thuật bảo tồn và tăng khả năng phẫu thuật triệt căn tuyến vú. 

- Hóa chất bổ trợ sau phẫu thuật

Sau khi phẫu thuật, bác sĩ sẽ xét nghiệm bệnh phẩm sau mổ bao gồm khối u và hạch, đánh giá giai đoạn cũng như thể bệnh, dựa vào đó để chỉ định điều trị hóa chất cho các bệnh nhân. Bệnh nhân ung thư vú sẽ bắt đầu được điều trị hóa chất trong khoảng thời gian từ 4 đến 8 tuần sau phẫu thuật. Các thuốc hóa chất có vai trò tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại về mặt vi thể sau cuộc mổ, kéo dài thời gian sống thêm không bệnh cho người bệnh.

- Hóa chất sử dụng cho giai đoạn di căn:

Ở giai đoạn bệnh đã di căn đến các cơ quan, bộ phận khác trong cơ thể, bác sĩ sẽ lựa chọn các phác đồ điều trị tùy theo từng bệnh cảnh, phù hợp với mỗi bệnh nhân, với các phác đồ dùng 1 đến 2 loại hóa chất và có thể kết hợp với các nhóm thuốc khác. Việc sử dụng các thuốc độc tế bào nhằm làm dừng sự phát triển của các tế bào ung thư bằng cách tiêu diệt tế bào u hoặc làm cho các tế bào không phân chia được, từ đó cải thiện triệu chứng, thời gian sống thêm bệnh không tiến triển, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.

Ung thư vú được điều trị như thế nào? - 2

Liệu pháp nhắm trúng đích

Liệu pháp nhắm trúng đích là phương pháp điều trị ung thư vú sử dụng các thuốc hoặc các chất xác định và tấn công các tế bào đặc hiệu. Các thuốc điều trị đích thường gây ra ít tác dụng không mong muốn hơn so với điều trị hóa chất và xạ trị, bao gồm các nhóm sau:

- Các thuốc kháng thể đơn dòng:

Là các protein thuộc hệ thống miễn dịch của cơ thể, được sử dụng để tác động vào những tế bào có kháng thể đặc hiệu trên bề mặt, từ đó giúp tiêu diệt, ngăn chặn sự phát triển cũng như lan rộng của tế bào ung thư. Hiện tại, các thuốc điều trị đích được sử dụng để điều trị cho các bệnh nhân có xét nghiệm yếu tố phát triển biểu mô (Her2-neu) dương tính ba cộng (+++), dùng được cho cả giai đoạn sớm và giai đoạn di căn. Các thuốc có thể kể đến là: Trastuzumab, Pertuzumab (Perjeta), Ado-trastuzumab emtansine (Kadcyla). 

- Thuốc ức chế enzym Tyrosin kinase:

 Các thuốc này tác động dựa trên cơ chế ngăn chặn tín hiệu tăng sinh tế bào đến các tế bào ung thư, từ đó ngăn chặn sự phát triển của khối u trong cơ thể. Các thuốc này gồm: Lapatinib, Neratinib, Tucatinib, được áp dụng điều trị cho các bệnh nhân ung thư vú có thụ thể phát triển biểu mô (Her2-neu) dương tính ba cộng (+++) đã kháng với thuốc kháng thể đơn dòng.

- Thuốc kháng CDK 4/6:

Là các thuốc gắn kết và ức chế protein CDK - loại protein tham gia vào quá trình nhân lên và phát triển của tế bào. Thuốc kháng CDK 4/6 đã được đưa vào sử dụng để điều trị bệnh nhân ung thư vú giai đoạn di căn có thụ thể nội tiết dương tính, thụ thể phát triển biểu mô (Her2) âm tính, bao gồm: Palbociclib (Ibrance), Ribociclib (Kisqali), Abemaciclib (Verzenio)

- Thuốc kháng PI3K:

Thuốc Alpelisib (Piqray) được dùng cho các bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn có thụ thể nội tiết dương tính, Her2 âm tính, đã kháng với các thuốc điều trị nội tiết trước đó.

- Thuốc kháng mTOR:

Everolimus (Afinitor) là loại thuốc tác động vào protein mTOR trong tế bào, từ đó ngăn chặn khối u phát triển, ngăn chặn sự tạo thành các mạch máu quanh u. Thuốc có hiệu quả trên các bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính, Her2 âm tính.

- Thuốc ức chế PARP:

Các thuốc này bao gồm Olaparib (Lynparza) và Talazoparib (Talzenna), được sử dụng cho các bệnh nhân ung thư vú có đột biến gen BRCA1 và BRCA2, Her2 âm tính.

Điều trị miễn dịch

Sự ra đời của liệu pháp miễn dịch đã mở ra một hướng đi mới trong điều trị bệnh ung thư. Các thuốc miễn dịch đã được nghiên cứu và đưa vào phác đồ điều trị của nhiều bệnh ung thư trong đó có ung thư vú. Phương pháp này sử dụng hệ thống miễn dịch của cơ thể, khôi phục và thúc đẩy hệ thống miễn dịch để chống lại khối u.

Mới đây, thuốc Atezolizumab (Tecentriq) - loại thuốc miễn dịch ức chế thụ thể PD-L1 trên bề mặt tế bào khối u - đã được sử dụng để điều trị ung thư vú giai đoạn muộn thể bộ ba âm tính, sử dụng kết hợp với hóa chất nab-paclitaxel và carboplatin. Tiến tới, liệu pháp miễn dịch đã và đang được nghiên cứu trong giai đoạn sớm hơn của ung thư vú.