Kiến nghị tòa thống nhất cách sử dụng các tài liệu mật trong vụ ông Nguyễn Hữu Tín

(Dân trí) - Chiều 23/10, theo nguồn tin riêng của Dân trí cho biết, các luật sư bào chữa trong vụ án ông Nguyễn Hữu Tín (cựu Phó chủ tịch UBND TPHCM) giao đất sai quy định cho công ty của Vũ "nhôm" đã có nhiều kiến nghị tòa hướng dẫn và thống nhất cách sử dụng các tài liệu mật trong vụ án này.

Trước đó, TAND TPHCM đã tiếp nhận hồ sơ truy tố từ Viện Kiểm sát chuyển qua, đang thụ lý xem xét và chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử.

Viện KSND tối cao truy tố cựu  Phó chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Hữu Tín, Đào Anh Kiệt (cựu  Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường TPHCM), Trương Văn Út (cựu Phó trưởng phòng Quản lý đất, Sở TN&MT TPHCM), Lê Văn Thanh (cựu Phó chánh văn phòng UBND TPHCM), Nguyễn Thanh Chương (cựu Trưởng phòng Đô thị, Văn phòng UBND TPHCM) cùng về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí (theo khoản 3 Điều 219 Bộ luật Hình sự, khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù).

Kiến nghị tòa thống nhất cách sử dụng các tài liệu mật trong vụ ông Nguyễn Hữu Tín - 1
Các luật sư kiến nghị giả mật hồ sơ vụ án.

Trong quá trình tiếp cận hồ sơ vụ án, các luật sư nhận thấy có nhiều tài liệu mật nếu bị tiết lộ hoặc sai về hình thức sử dụng sẽ gây nguy hại, ảnh hưởng đến lợi ích Quốc gia. Vì vậy, các luật sư kiến nghị nhằm làm rõ và xin hướng dẫn cụ thể để thống nhất việc sử dụng các tài liệu, văn bản mật trong quá trình xét xử vụ án.

Cụ thể, luật sư viện dẫn theo Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì “Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai”.

Như vậy, khi phiên tòa được xét xử công khai, nhiều người tham dự phiên tòa thì các tài liệu, văn bản mật sẽ bị tiết lộ. Ngoài ra, việc xét xử công khai là hành vi tự động giải mật đối với các tài liệu, văn bản mật có trong vụ án. Trong trường hợp này, người bào chữa có thể sử dụng công khai các tài liệu có trong vụ án mà không vi phạm Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

Còn đối với trường hợp tòa án xét xử kín và tuyên án công khai, người bào chữa song song đó phải thực hiện hai quyền và nghĩa vụ mà pháp luật hình sự quy định. Cụ thể là không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (điểm e khoản 2 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

Đồng thời người bào chữa có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; (Điều 26 và điểm a khoản 2 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

Như vậy, người bào chữa có nghĩa vụ đồng thời có quyền được đưa ra các chứng cứ, được sử dụng các tài liệu có trong hồ sơ (kể cả các tài liệu mật) để làm rõ sự thật khách quan của vụ án nhưng tuyệt đối không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước…

Từ đó, luật sư đề nghị cơ quan xét xử có hướng dẫn cụ thể để thống nhất trong việc sử dụng các tài liệu, văn bản mật (chưa được giải Mật) đối với người bào chữa trong quá trình xét xử vụ án. Từ đó, người bào chữa có các hành vi tố tụng hợp pháp tương ứng đối với cả hai hình thức xét xử công khai và xét xử kín. Cụ thể, về hình thức, cách thức, phạm vi sử dụng… 

Bên cạnh đó, các luật sư cũng kiến nghị tòa xác định nội dung kết luận giám định tư pháp của Bộ Tài chính ngày 3/6/2019. Luật sư cho rằng còn nhiều vấn đề cốt lõi kết luận giám định tư pháp chưa làm rõ, không đúng sự thật khách quan dẫn đến nội dung của cáo trạng truy tố các bị can chưa chính xác, thiếu căn cứ truy tố, buộc tội.

 Xuân Duy