1. Dòng sự kiện:
  2. Tư vấn tài chính cá nhân
  3. VNDirect bị tấn công

Việt Nam cần cải cách để vượt "bẫy thu nhập trung bình"

(Dân trí) - Theo GS Trần Văn Thọ, từ một nước vừa bước vào ngưỡng thu nhập thấp, để tiến đến trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thì đất nước sẽ còn phải nỗ lực, cải cách rất nhiều.

Việt Nam cần cải cách để vượt "bẫy thu nhập trung bình" - 1
GS Trần Văn Thọ (ảnh Bích Diệp).

Trong chuyến công tác ngắn ngày về Việt Nam của GS Trần Văn Thọ, từng là thành viên Tổ Tư vấn Cải cách Hành chính và Kinh tế của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người viết đã có dịp trao đổi với ông về một số vấn đề kinh tế vĩ mô hiện nay.

Đề cập đến “bẫy thu nhập trung bình” trong bối cảnh Việt Nam vừa bước chân vào ngưỡng các nước có thu nhập trung bình thấp, giáo sư cho biết, đến 2020, nước ta cũng có thể sẽ đạt được mức thu nhập cao. Song “vấn đề là Việt Nam có thể tiếp tục phát triển bền vững để trở thành nước có thu nhập cao trong vài thập kỷ sau đó nữa hay không mới là điều quan trọng”. 

Trong lịch sử kinh tế thế giới, ít khi có quốc gia nào vượt qua được bẫy này, thậm chí có những nước đã mắc vào bẫy này từ rất sớm mà không cần đợi đến khi đạt được mức thu nhập trung bình cao ( khoảng 4.000 USD).

Ông dẫn ví dụ điển hình là trường hợp của Philippines. Vào những năm 1950, nước này chỉ phát triển đứng sau Nhật Bản. Năm 1960, GDP bình quân đầu người của Philippines vẫn cao gấp đôi Thái Lan nhưng đến giữa thập niên 1980 thì đã bị Thái Lan đuổi kịp rồi vượt qua trong năm 2000.

Vượt qua được thử thách đó là khó khăn nhưng không phải không làm được. Bằng chứng là Hàn Quốc, một đất nước cách đây 50 năm vẫn còn kém phát triển, nhưng chỉ sau 1 thế hệ, họ đã trở thành một nước công nghiệp phát triển trên thế giới.

Trước tiên, phải kể đến tố chất của những người lãnh đạo, những chính trị gia luôn trăn trở về con đường phát triển của đất nước, biết thức thời, quy tụ và sử dụng nhân tài.

Bên cạnh đó, từ rất sớm, Hàn Quốc đã có một cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt, là cơ sở để xây dựng được bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao. 

Đến nay, theo đánh giá của ông thì Việt Nam mới chỉ chủ yếu tìm hiểu, nghiên cứu về những chính sách, chiến lược cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa, giáo dục... những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy thành công, thì hầu như chưa được chú trọng, hoặc có nhưng chưa được thực thi, áp dụng. 

“Đó là những điều tôi mong thời gian tới sẽ thay đổi” – ông nói.

Trước đó, tại hội thảo “Châu Á với mức thu nhập trung bình: Các thách thức chính sách phía trước” tổ chức hồi tháng 5 năm ngoái, giáo sư Kenichi Ohno từ Viện quốc gia sau đại học về nghiên cứu chính sách của Nhật Bản cũng nhấn mạnh:

“Chỉ các quốc gia thiết lập được một cơ chế nội địa trong việc xúc tiến và thậm chí thúc đẩy tích lũy nguồn lực con người mới có khả năng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và đạt được mức thu nhập cao. Bởi, các yếu tố này giúp tạo ra các giá trị đáp ứng nhu cầu quốc tế”.

Hơn một thế hệ và những cơ hội bị bỏ lỡ

Trên thực tế, để đạt được thành quả mà bây giờ đang có, Việt Nam đã để mất hơn một thế hệ. “Một thế hệ - tương đương trên dưới 25 năm - có thể xem như một đơn vị thời gian quan trọng để khảo sát sự thay đổi về chất của xã hội. Khoảng thời gian này đủ làm thay đổi hẳn cục diện nhiều quốc gia” – GS Trần Văn Thọ nhìn nhận.

Ông liên hệ trở lại khoảng thời gian nửa đầu thập niên 1990, cụ thể là từ năm 1993, Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ phát triển.

Theo đó, tình hình quốc tế lúc bấy giờ rất thuận lợi cho Việt Nam: Cộng đồng quốc tế bắt đầu một cơ chế giúp vốn vay ưu đãi để xây dựng kết cấu hạ tầng. Doanh nghiệp nước ngoài dự định đổ xô vào Việt Nam đầu tư sản xuất nhiều mặt hàng công nghiệp như điện tử và các loại máy móc. Đồng Yên Nhật lên giá mạnh làm phát sinh dòng chảy đầu tư trực tiếp lớn đang khao khát tìm cơ sở sản xuất mới.

Tuy nhiên, do môi trường pháp lý chậm cải thiện, kéo dài chính sách đối xử phân biệt với nước ngoài và chính sách công nghiệp không rõ ràng, thay đổi thường xuyên nên cơ hội này bị bỏ lỡ. 

Do vậy, dòng chảy vốn đầu tư trực tiếp đó kết cuộc đã đổ sang các tỉnh ven biển Trung Quốc, sau đó kéo theo hàng chục vạn doanh nghiệp nhỏ và vừa đến đầu tư hình thành những cụm công nghiệp lớn ở vùng này.

Mới đây, Việt Nam cũng đã để tuột qua tay một “cơ hội vàng” khi “đại bản doanh” của những Tập đoàn công nghiệp lớn là Thái Lan phải trải qua trận lũ lịch sử kinh hoàng. Sản xuất bị đình đốn và hoạt động kinh doanh ảnh hưởng nặng nề, không ít doanh nghiệp đã phải chọn hướng dồn sản xuất sang các cơ sở, nhà máy lẻ ở Việt Nam để tránh bị đổ bể đơn hàng, suy giảm doanh thu và mất uy tín. Song, đến cả cơ hội này Việt Nam cũng không giữ được.

Do nền công nghiệp phụ trợ kém phát triển và chưa đáp ứng được nhu cầu của những nhà đầu tư lớn, nên Việt Nam đành “ngậm ngùi” nhường luồng vốn này chảy sang các nước xung quanh.

Rõ ràng, đó là một thực tế mà không sớm thì muộn Việt Nam cũng cần phải thay đổi nếu không muốn mắc kẹt lại. Chính vì vậy, thời gian tới, Chính phủ đang nỗ lực thực hiện tái cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế, bắt đầu từ năm 2012 này, với 3 hướng chính: tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Chưa thể đưa ra kết luận về hiệu quả ngay, nhưng rõ ràng đó là một bước đi cần thiết.

 GS Trần Văn Thọ hiện đang giảng dạy và nghiên cứu kinh tế tại Đại học Waseda (Tokyo), Nhật Bản, là một nhà nghiên cứu và có nhiều đóng góp về tư duy kinh tế cho Việt Nam.

Năm 1990, lần đầu tiên có ba người nước ngoài được mời làm thành viên chuyên môn trong Hội đồng Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Nhật, ông là một trong ba người đó. Ông ở cương vị này trong gần 10 năm, qua nhiều đời Thủ tướng Nhật.

Tại Việt Nam ông từng là thành viên trong Tổ Tư vấn Cải cách Hành chính và Kinh tế của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Mới đây, GS Trần Văn Thọ là một trong 14 trí thức ở nước ngoài vừa đề xuất Bản ý kiến về việc đẩy mạnh cải cách toàn diện để phát triển đất nước. 
Bích Diệp