1. Dòng sự kiện:
  2. Nổ xưởng gỗ ở Đồng Nai
  3. 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ

ĐBSCL:

Những làng nghề ăn theo mùa lũ tất bật vào vụ làm ăn

(Dân trí) - Đến tháng 7 âm lịch, dòng nước đỏ ngầu từ thượng nguồn đổ về, các làng nghề ăn theo mùa lũ, như: Làng lưới Thơm Rơm (Cần Thơ), làng đóng ghe, xuồng Long Hậu (Đồng Tháp), làng câu, lọp Châu Phú (An Giang)… tất bật sản xuất, bước vào vụ làm ăn mới.

Làng nghề tất bật sản xuất

Dù con nước lũ mới “bò” về các tỉnh đầu nguồn như An Giang, Đồng Tháp… nhưng những ngày này, về đến Làng lưới Thơm Rơm (thuộc xã Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, Cần Thơ) đã có thể chứng kiến cảnh người dân đang gia công lưới, chài, dớn… rất tất bật. Ai nấy như chạy đua với thời gian để có đủ hàng cung cấp cho khách hàng ở các tỉnh miền Tây và cho cả bà con nông dân chuyên sống bằng nghề “bà cậu” – giăng câu, chài, lưới ở nước bạn Campuchia.

Theo tìm hiểu của PV Dân trí, trước đây người dân nơi đây sống chủ yếu với hai nghề chính là trồng lúa và nghề “bà cậu”. Vì thế ban đầu, Làng lưới Thơm Rơm hình thành chỉ phục vụ nhu cầu của người dân địa phương và một số địa phương lân cận trong tỉnh Cần Thơ. Tuy nhiên, do “tiếng lành đồn xa”, các sản phẩm ở Làng lưới Thơm Rơm bắt đầu được người dân ở các tỉnh như An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang… và cả người một số thương lái từ Campuchia cũng qua tận đây lấy hàng.

Hiện tại có khoảng 30 hộ sản xuất và bán các mặt hàng lưới, chài, dớn... tại làng lưới Thơm Rơm
Hiện tại có khoảng 30 hộ sản xuất và bán các mặt hàng lưới, chài, dớn... tại làng lưới Thơm Rơm

Chị Hằng – có hơn 10 năm với nghề cung cấp các mặt hàng câu, lưới, chài, dớn… cho bạn hàng Campuchia cho biết: “Sở dĩ các tiểu thương bên đó thích hàng ở làng lưới Thơm Rơm là vì các mặt hàng phong phú, bền chắc và đặc biệt là giá cả thấp hơn những đầu mối khác từ 10 – 15%”.

Tại cơ sở sản xuất anh Qui - chị Tú có gần 30 công nhân lao động đang tập trung gia công các phần việc còn lại của mặt hàng lưới, như dập chì, vô phao, bắt viền… Chủ các cơ sở sản xuất nơi đây cho biết, một công lao động như thế, một ngày có thu nhập từ 100.000 – 150.000 đồng. Một hai tháng trước cơ sở còn có nhiều “công nhân nhí” là các em học sinh tranh thủ những ngày hè đến đây làm việc cũng kiếm được từ 40.000 – 50.000 đồng/ngày.

Theo tìm hiểu được biết, nghề lưới ở Thơm Rơm hình thành từ những năm 1980, do một nhóm người di cư từ Huế vào và bắt tay sản xuất lưới để bán cho người dân (trước đây người dân muốn mua lưới phải lên tận Sài Gòn). Thấy việc sản xuất và bán lưới có hiệu quả nên nhiều hộ làm theo và đến nay đã có khoảng 30 hộ chuyên sản xuất lưới, vào mùa vụ giải quyết việc làm cho hàng trăm công nhân lao động tại địa phương.

Hiện tại có khoảng 30 hộ sản xuất và bán các mặt hàng lưới, chài, dớn... tại làng lưới Thơm Rơm
Dù chưa đến đỉnh điểm của mùa nước nổi nhưng mấy ngày nay, nhiều nông dân sống bằng nghề "bà cậu" đã rục rịch mua chài, lưới.

Cùng thời điểm này, đến làng chuyên sản xuất lọp đặt cua đồng, tép (thuộc xã Mỹ Đức, huyện Châu Phú, An Giang), không khí cũng xôm tụ không kém. Tại đây có hơn 70 hộ dân chuyên làm lọp đặt cua đồng, tép… phần lớn các sản phẩm làm ra được phục vụ cho nông dân chuyên sống bằng nghề “bà cậu” ở địa phương và nhiều tỉnh ở ĐBSCL, một số khác được “xuất khẩu” sang nước bạn Campuchia.

Anh Trần Văn Tài, người có hơn 10 năm trong nghề đan lọp cua đồng, cho biết: “Một hai năm nay lũ về nhỏ nên lọp cua, tép… ở địa phương cũng bán chậm và ít hơn những năm lũ lớn. Tuy nhiên, thị trường nội địa có yếu nhưng bù lại nông dân các tỉnh Kan Đal, Tà Keo (Campuchia)… sang đây mua lọp rất nhiều. Vì vậy, bà con làm lọp tụi tui cũng sống khỏe mỗi khi mùa nước nổi về”.

Cũng theo anh Tài, trung bình mỗi hộ làm lọp cua (khoảng 3 - 4 người làm) làm được khoảng 120 -150 cái lọp. Vào thời điểm này trung bình một cái lọp bán từ 40.000 – 50.000 đồng, khi trừ đi chi phí, công thợ, cũng lời khoảng 20.000 đồng/cái lọp.

Hiện tại có khoảng 30 hộ sản xuất và bán các mặt hàng lưới, chài, dớn... tại làng lưới Thơm Rơm
Tại làng làm lọp đặt cua đồng, tép.... không khí cũng tất bật không kém những làng nghề ăn theo mùa lũ

Với người dân sống bằng nghề câu lưới… không thể thiếu chiếc xuồng, vì thế khi mùa nước lũ về cũng là thời điểm nghề đóng xuồng “hốt bạc”. Đến làng nghề đóng ghe xuồng ở xã Long Hậu (Lai Vung, Đồng Tháp) không khí nơi đây cũng không kém phần tất bật như làng lưới, làng lọp đặt cua đồng ở An Giang, Cần Thơ.

Chủ cơ sở Út Hữu (52 tuổi), người có gần 40 năm trong nghề đóng ghe, xuồng, ông Hữu cho biết: “Nghề đóng ghe xuồng ở xứ này có hàng trăm năm nay và cũng là nghề cha truyền con nối, như gia đình tôi có 4 người con trai, thì cả bốn đều nối nghiệp tôi rồi.”

Theo ông Hữu, bắt đầu từ tháng 5 âm lịch là bước vào mùa đóng xuồng. Xuồng được đóng thành nhiều kiểu như xuồng cui, xuồng vỏ gáo, xuồng mũi bằng, xuồng ba lá… Trong đó, các loại xuồng được người dân trong và ngoài tỉnh ưa chuộng, như xuồng gỗ sao, gỗ sến, với kích cỡ 4,5m - 6,5m, giá dao động từ 1,2 triệu đồng đến 1,5 triệu đồng/chiếc còn xuồng lớn, gỗ tốt bán hơn 2 triệu đồng/chiếc.

Được biết, mỗi năm, xã Long Hậu cho “xuất xưởng” khoảng 20.000 chiếc xuồng, ghe các loại, giải quyết việc làm cho trên 1.000 lao động thường xuyên ở địa phương. Tuy nhiên một hai năm trở lại đây, do lũ nhỏ nên sức tiêu thụ giảm đáng kể, nhiều cơ sở nhỏ sống không nổi với cảnh ế ẩm nên đành bỏ nghề. Đây cũng là vấn đề lo ngại của chính quyền địa phương, nếu không có chính sách hỗ trợ phù hợp, làng nghề đóng xuồng trứ danh miền Tây có thể bị mai một.

Nông dân làm nghề “bà cậu” chờ con nước về

Nhìn con nước đang bò lên mé bờ, nông dân Nguyễn Văn Bền – xã Long Khách A, huyện Hồng Ngự cho biết: “Những người dân sống bằng nghề bà cậu như chúng tôi trông đợi con nước về lắm, nhưng chỉ nói riêng với chú thôi vì bây giờ có nhiều bà con nông dân vùng lũ trồng lúa vụ 3 lắm. Bởi thế nếu nước về sớm, về nhiều là bà con mất trắng lúa”.

Cũng theo ông Bền, gia đình chỉ có vài công ruộng nên tính toán lại, làm lúa vụ 3 không lời nên bán lúa chét, lấy tiền sắm câu, lưới… chờ nước về, bắt con cá, con tép bán, kiếm thêm thu nhập trong mùa nước nổi.

Hiện tại có khoảng 30 hộ sản xuất và bán các mặt hàng lưới, chài, dớn... tại làng lưới Thơm Rơm
Với những nông dân sống bằng nghề "bà cậu", họ mong con nước lũ sớm về để có thêm thu nhập từ việc đánh bắt cá, cua, tép...

Cùng sống với nghề ăn theo mùa nước lũ, anh Nguyễn Văn Út – xã Phú Hội (An Phú, An Giang) cho biết: “Gia đình tôi cũng như một số hộ dân địa phương nơi đây chuyên sống bằng nghề “bà cậu” nên chúng tôi trông mùa lũ về lắm. Hàng năm, ngoài việc giăng câu lưới trên những cánh đồng ở địa phương, chúng tôi còn đăng ký mua đồng, mua ruộng bên nước bạn Campuchia để giăng, câu lưới… Vì vậy, năm nào lũ về nhỏ, cá, tép, cua ít… coi như bị thất mùa, có khi còn lỗ tiền đóng thuế, mua lô ruộng khai thác”.

Chị Nguyễn Thị Mai – xã Đồng Bình, huyện Thới Lai, Cần Thơ nhớ lại: “Hồi đó, sau khi kết thúc hai vụ lúa (đông xuân và hè thu) là bà con chúng tôi đều gác việc cày cấy qua một bên, bắt đầu chuẩn bị ghe xuồng, câu lưới để “ra khơi” ngay trên những cánh đồng của mình. Cá tép, cua ốc thời đó nhiều lắm, vì thế một gia đình có 3 -4 cậu con trai giăng câu lưới là kiếm nửa triệu mỗi ngày như chơi. Ngoài ra, chính mùa nước nổi, ngoài việc giúp bà con có thêm thu nhập từ việc bắt cá, bắt cua… nước lũ còn bồi đắp phù sa cho đồng ruộng nên đến vụ đông xuân, bà con đỡ chi phí phân thuốc nhiều lắm. Còn bây giờ làm lúa quanh năm, đất không nghỉ, bà con cũng chẳng được nghỉ ngơi.”

Để bảo vệ lúa vụ 3, một số địa phương còn đầu tư xây dựng đê bao bằng bê tông vững chắc thế này
Để bảo vệ lúa vụ 3, một số địa phương còn đầu tư xây dựng đê bao bằng bê tông vững chắc thế này

Đã bao đời nay, người dân vùng ĐBSCL không chỉ “sống chung với lũ” mà còn biết lợi dụng mùa lũ để mưu sinh bằng việc giăng câu, lưới, đặt lọp tép, cua… vừa kiếm thêm thu nhập trong mùa nước nổi cũng vừa là thời gian nghỉ ngơi cho đất, cho bà con nông dân sau hai vụ cày cấy. Với chủ trương đầu tư đê bao ngăn lũ, sản xuất vụ ba để tăng sản lượng lúa… nhiều chuyên gia cho rằng, sản lượng lúa có tăng, nhưng đời sống người nông dân chưa được cải thiện và những hệ lụy về môi trường đã thấy là sự xuống cấp, bạc màu của đất, độ mặn tiến sâu vào nội đồng, nguồn thủy sản nước ngọt tự nhiên ngày càng cạn kiệt...

Nguyễn Hành