1. Dòng sự kiện:
  2. Nổ xưởng gỗ ở Đồng Nai
  3. Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV
  4. TPHCM "khát" cây xanh

Mất bạn, mất việc, bị bạo hành vì công khai… đồng tính

(Dân trí) - Một “báo cáo tổng quan” về cộng đồng 1,6 triệu người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) tại Việt Nam vừa được công bố ngày 14/5. Cuộc điều tra đầu tiên về vấn đề hôn nhân đồng giới này cũng đưa lại nhiều kết quả đáng chú ý.

Cuộc điều tra với kết quả là bản “báo cáo tổng quan” này do Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) cùng nhiều chuyên gia xã hội học tiến hành.

TS Lê Quang Bình – Viện trưởng iSEE - khái quát, cuộc điều tra được tiến hành trên 3.000 người đồng tính nam và 2.000 người đồng tính nữ trong 2 năm (2009-2010). Kết quả khảo sát thể hiện một vấn đề đáng quan tâm là thực trạng cuộc sống của những người đồng tính, song tính và chuyển giới trong môi trường xã hội còn nhiều kỳ thị, mù mờ thông tin ở Việt Nam.

Ông Bình nêu một vài con số: có tới 95% người đồng tính nam được hỏi nói rằng đã từng nghe người khác nói người đồng tính là không bình thường; 20% đã bị mất bạn khi “để lộ” thân phận thật của mình; 15% số người đồng tính bị gia đình chửi mắng, đánh đập. Nghiêm trọng hơn, 4,5% đã bị tấn công, 4,1% bị đuổi khỏi chỗ ở và 6,5% người đồng tính bị mất việc khi “bị phát hiện thân phận thật”.

“Trải nghiệm của người đồng tính với việc bị phân biệt đối xử là có thật” – ông Bình khẳng định. Theo phân tích của Viện trưởng Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường, hành vi bạo hành đối với người đồng tính ở Việt Nam còn có đặc điểm là chủ thể hành động đến từ chính gia đình, người thân của người đồng tính chứ không phải từ đường phố. Sự kỳ thị trong xã hội thể hiện theo hướng biểu hiện xa cách, lạnh lùng, tẩy chay…

Việc công khai “danh phận”, con người thật của mỗi cá nhân trong cộng đồng LGBT cũng là một thử thách khắc nghiệt, một quyết định khó khăn, đòi hỏi nhiều dũng cảm và… chấp nhận hi sinh.
Ảnh trưng bày về cuộc sống của người đồng tính nhận được sự quan tâm tìm hiểu của nhiều độc giả.
Ảnh trưng bày về cuộc sống của người đồng tính nhận được sự quan tâm tìm hiểu của nhiều độc giả.

Về tâm tư, nguyện vọng, 92% trong số hơn 2.400 người đồng tính nữ được hỏi đã nói rằng muốn được pháp luật công nhận việc kết hôn đồng giới. Điều tra tương tự của Trung tâm ICS (tổ chức bảo vệ và thúc đẩy quyền của người LGBT tại Việt Nam) tại TPHCM thực hiện với 2.000 người đồng tính nam và đồng tính nữ cũng cho thấy 71% mong muốn được pháp luật cho phép kết hôn đồng giới, 25% muốn được sống chung có đăng ký và 4% muốn được sống chung không đăng ký. 62% số người được hỏi nói rằng đang có hoặc đã từng có người yêu; 77% người đồng tính nữ khẳng định họ muốn kết hôn và có con.

Với câu hỏi về mong muốn gì cho cuộc sống trong 10 năm tới, hầu hết những người đồng tính đều trả lời mong không còn bị kỳ thị, được sinh sống, kết hôn, xây dựng gia đình với người mình muốn.

Theo ông Lê Quang Bình, kết quả cuộc điều tra cũng cho thấy những người đồng tính cố gắng kết hôn dị tính vì sức ép từ phía gia đình, muốn có con cái để nối dõi đã gặp phải một bi kịch khác. 52% trong số người chấp nhận cuộc sống với thân phận bị che giấu say đó vẫn buộc ly hôn vì hôn nhân không hạnh phúc. Vợ/chồng của họ hoặc gia đình họ không chấp nhận việc họ là người đồng tính.

Nghiên cứu của iSEE cũng chỉ ra rằng xu hướng người đồng tính bị “ép” kết hôn dị tính chủ yếu xảy ra ở vùng ngoại ô hoặc nông thôn hơn là khu vực thành thị và ở phía Bắc nhiều hơn phía Nam.

Đến từ Viện chiến lược và chính sách y tế (Bộ Y tế), TS. Nguyễn Thu Nam cũng công bố nhiều kết quả nghiên cứu về tác động của việc công nhận hôn nhân đồng giới ở các nước trên thế giới. Theo đó, việc công nhận hôn nhân đồng giới không gây ra hệ quả nào đến phát triển dân số, tỷ lệ ly hôn, tỷ lệ trẻ em phạm tội… cũng như quan niệm về thể chế gia đình truyền thống và sự phát triển của trẻ.

Ở Đan Mạch - nước đầu tiên công nhận hôn nhân đồng giới, tỷ lệ ly hôn trong năm 1999-2000 thậm chí còn giảm đôi chút. Tỷ lệ ly hôn trong những cuộc hôn nhân đồng giới cùng không khác nhiều hôn nhân dị tính.

Nữ tiến sĩ này cũng khẳng định, không có bằng chứng nào về bất kỳ nguy cơ gì đối với sự phát triển của trẻ em khi được nuôi dưỡng trong các gia đình đồng tính. Tỷ lệ trẻ trong gia đình bố mẹ đổ vỡ hoặc đơn thân phát triển kém về thể chất, tinh thần còn cao hơn trong các gia đình đồng tính.

Việc công nhận hôn nhân đồng giới, ngược lại, mang đến nhiều kết quả tích cực với các cá nhân và xã hội. Đối với bản thân những người đồng tính, rõ ràng việc này là sự thay đổi đột phá, mang lại cho mỗi người cảm giác an toàn về mọi khía cạnh của cuộc sống chung, có trách nhiệm và tăng tính cam kết, làm tăng chất lượng cuộc sống. Việc đăng ký chung sống đồng nghĩa với cam kết về hành vi chung thủy, từ đó giảm thiểu nguy cơ lây truyền bệnh qua đường tình dục.

Đối với bố mẹ người đồng tính, họ sẽ được giải tỏa tâm lý khi biết con mình có cơ hội có cuộc sống hôn nhân, gia đình bình thường như những người khác, giúp giảm bớt áp lực xã hội, tâm lý, tránh được những hậu quả đáng tiếc như việc trẻ bỏ nhà đi hay các vấn đề sức khỏe tâm trí khi mối quan hệ bố mẹ - con cái đổ vỡ.

Các hình thức công nhận ở mỗi nước cũng rất phong phú, từ việc ghi nhận hình thức sống chung đến kết đôi có đăng ký, kết hôn... Tuy nhiên, xu hướng chung, ngay cả các cặp đôi đồng tính đều hướng tới hình thức bền vững, đầy đủ nhất về mặt pháp lý là hôn nhân.
 

Về vấn đề trình độ học vấn và nghề nghiệp, kết quả nghiên cứu của iSEE cho thấy 68% người đồng tính nam và 70% người đồng tính nữ có trình độ trung cấp, CĐ và ĐH. Tại cuộc khảo sát với đồng tính nữ trong năm 2013 cũng cho thấy hơn một nửa mẫu khảo sát có trình độ học vấn từ ĐH trở lên; trình độ trung cấp và CĐ là 9,2%.

Trong số gần 3.000 người đồng tính trả lời thông qua các diễn đàn trên internet cho thấy người đồng tính làm trong doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ lệ lớn nhất (khoảng 24%), cơ quan hành chính sự nghiệp (13%), các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là 14,3%. Người đồng tính làm nghề dịch vụ khách hàng cũng chiếm tỷ lệ18%, tiếp đến là văn hóa-nghệ thuật, nghiên cứu khoa học kỹ thuật, dịch vụ công, quản lý hành chính, sản xuất công nghiệp, thể thao.

Tài liệu nghiên cứu, truyền thông của đơn vị này cũng gạt bỏ nhận định lĩnh vực văn hóa văn nghệ và giải trí làm phát sinh nhiều người đồng tính. Thực tế cho thấy người đồng tính làm việc trong tất cả các loại hình cơ quan, ngành nghề công việc, như một xã hội thu nhỏ. Họ thường thể hiện mình nhiều hơn trong lĩnh vực “mở” xã hội có cảm giác giới showbiz là “đất” của người đồng tính.

P.Thảo