Ung thu vú: Không đáng sợ!

(Dân trí) - Nếu ung thư vú được phát hiện sớm, 80% bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú sẽ được chữa khỏi. Và ngược lại với suy nghĩ của mọi người, đã có những phương pháp bảo tồn phần ngực bị ảnh hưởng.

Chính xác ung thư vú là gì?

 

Về cơ bản, ung thư vú là một khối u ác tính phát triển từ những tế bào ở ngực với triệu chứng điển hình là nổi u.

 

Khi tự khám ngực, nếu thấy một khối u ở ngực, cần tiến hành chụp nhũ ảnh, siêu âm và/hoặc làm sinh thiết để biết chắc liệu đó có phải là ung thư vú hay không.

 

Bệnh nhân dưới 40 tuổi nên làm siêu âm

 

“Đối với bệnh ung thư vú, thông tin quan trọng nhất đối với các bác sỹ là tình trạng hạch nách của bệnh nhân. Lý do là do từ ngực, nơi đầu tiên di căn là nách. Nếu hạch ở nách là ác tính, đó là tin xấu. Nếu chưa có hạch ở nách, đó là tin tốt".

Bác sỹ Elizabeth Au, chuyên khoa ung thư thuộc tập đoàn y tế Parkway, chỉ ra rằng: "Đối với phụ nữ dưới 40 tuổi, phim chụp nhũ ảnh không rõ và khó có thể thấy được dấu hiệu bất thường. Vì vậy, họ có thể cần cả siêu âm và chụp nhũ ảnh. Nhưng đối với phụ nữ trên 50 tuổi, chỉ cần nhũ ảnh cũng đủ để thấy được gần hết các bất thường”.

 

Khi làm sinh thiết, bác sỹ sẽ chích một miếng mô nhỏ trong khối u để kiểm tra vi thể xem tế bào đó lành tính hay ác tính. Nếu mảnh sinh thiết đó cho thấy bệnh nhân không bị ung thư vú thì bệnh nhân không cần phải làm gì nữa. Và bệnh nhân chỉ phải chịu đựng một vết chích nhỏ.

 

Tuy nhiên, nếu là ác tính, bệnh nhân sẽ phải làm phẫu thuật nhiều hơn. “Và thường chúng tôi có thể bảo tồn ngực nếu ung thư được phát hiện sớm. Và đó là những gì chúng tôi hy vọng”, BS Hong nói. Phát hiện sớm ở đây là khi khối u mới chỉ có diện tích trung bình khoảng 2cm, tức là mới phát triển được từ 1 đến 2 năm

 

"Nếu hạch lớn có thể cảm nhận được, thường cho thấy ung thư vú đã di căn. Khối u càng lớn, thì càng có thể chắc rằng hạch nách bị ảnh hưởng", bác sỹ Hong nói. 

 

"Theo thực tế kinh nghiệm của tôi, bệnh nhân thường ở độ tuổi 30, có học thức, chưa lập gia đình, và họ thường đi khám khi khối u đã to. Tôi hiểu tại sao mọi người lại chần chừ việc đi khám", ông nói.

 

Điều trị - Không nên sợ hãi

 

Bác sỹ Au cho biết nỗi sợ hãi lớn nhất của bệnh nhân là phản ứng phụ trong quá trình điều trị. Sau khi làm phẫu thuật, bệnh nhân cần được xạ trị và/hoặc hóa trị và liệu trị hóc môn để làm giảm nguy cơ tái phát của bệnh. Và đặc biệt với phương pháp hóa trị, các bệnh nhân thường lo bị rụng tóc.

 

"Hầu hết các bệnh nhân sẽ có cảm giác buồn nôn. Nó giống như mang thai trong một vài ngày. Còn rụng tóc, ta không thể ngăn chặn được nhưng nó cũng giống như món ăn, thường vị thức ăn vẫn thế, chỉ là vị giác khác mà thôi", bác sĩ Au chia sẻ.

 

Tất cả những phản ứng phụ đó diễn ra trong vòng 3 đến 4 ngày mỗi tháng và việc điều trị sẽ kết thúc trong khoảng thời gian 4, 5 tháng hoặc 6 tháng. Tuy nhiên, tóc của bệnh nhân sẽ rụng và nó sẽ mọc trở lại khi kết thúc việc điều trị.

 

Cũng có một số bệnh nhân hoàn toàn không bị ốm. Nhưng cũng có những người quá lo lắng và nôn ngay tại phòng khám của bác sỹ Au trước khi việc điều trị bắt đầu.

           

Bác sỹ Au tiếp tục nhấn mạnh: "Sau khi được phát hiện, phải nhớ rằng ung thư ở giai đoạn đầu, 80% bệnh nhân ung thư sẽ được chữa khỏi. Họ chỉ cần vượt qua được giai đoạn điều trị khó khăn và sau đó mọi thứ sẽ ổn.

 

Tính di truyền thường không phải là một nhân tố

 

"Nếu bạn phát hiện thấy một khối u ở ngực, đừng hoảng sợ. 80% trường hợp có u như vậy là lành tính", bác sỹ Elizabeth Au cho biết. Tuy nhiên, bệnh nhân đó nên đến gặp bác sỹ càng sớm càng tốt. Và đừng bao giờ làm giảm tuổi thọ của bạn bằng việc nghĩ rằng bạn sẽ không bao giờ bị mắc bệnh ung thư vú chỉ vì gia đình bạn chẳng có ai bị mắc bệnh đó cả hoặc bởi vì bạn không nằm trong nhóm người có nguy cơ mắc bệnh cao.

 

Theo kinh nghiệm của bác sỹ Au, ung thư vú ở dạng di truyền không phổ biến lắm, chỉ khoảng 10% trong số những bệnh nhân bà đã gặp.

 

Những người nằm trong nhóm có nguy cơ mắc bệnh cao bao gồm: 

 

- Những người không hoạt động nhiều về thể lực thời thanh niên.

 

- Những người uống ít nhất 1 đến 1,5 lít rượu mỗi ngày có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao gấp 3 - 4 lần.

 

- Phụ nữ sinh con muộn sau tuổi 30 cũng có nguy cơ mắc bệnh cao.  

 

Bác sỹ Au cũng cảnh báo rằng những năm gần đây những bệnh nhân trẻ mắc bệnh ung thư vú ngày càng có xu hướng tăng. Trước đây, những bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú thường phổ biến ở độ tuổi 50 đến 60. Bây giờ, "chúng tôi gặp những bệnh nhân trong độ tuổi cuối 20, đầu 30. Và khá nhiều trong số họ đang ở độ tuổi cuối 30, sắp bước vào tuổi 40, 41".

 

Hơn nữa, có nhóm bệnh nhân ung thư vú với số lượng lớn nhưng không nằm trong nhóm những người có nguy cơ mắc bệnh cao. "Họ có con sớm, cho con bú, rèn luyện thể chất, từng là vận động viên trong những năm ở tuổi thanh thiếu niên, nhưng họ vẫn mắc bệnh ung thư vú", bác sỹ Au nói.

 

Vấn đề ở đây là, bất kỳ phụ nữ nào cũng có thể mắc bệnh ung thư vú. Và nếu phát hiện sớm thì hoàn toàn có thể cứu chữa được.

 

(Bài viết do các bác sỹ thuộc tập đoàn Y tế Parkway cung cấp).