Chuyện về Bác sỹ từng ở Trường Sa

(Dân trí) - “Cứu một thương binh ngày ấy cũng khẩn trương, trách nhiệm... như cứu một người bệnh thời bình. Với tôi, tất cả họ đều là bệnh nhân”!, tâm sự của BS Trần Công Nghĩa, GĐ Phòng khám đa khoa 385 ở Hà Huy Tập, Thành phố Vinh.

Ít ai biết được, sau thành công của ngày hôm nay, ông từng là người vào sinh ra tử, chiến đấu ở chiến trường B5 Quảng Trị biên chế ở Quân đoàn 2, từng là Bác sỹ tăng cường ra đảo Trường Sa sau xung đột với Trung Quốc... Và ông đã mấy lần suýt chết khi đang làm nhiệm vụ trên đảo. Trở về từ đảo, từ hai lần vào “cửa tử”, ông luôn tâm niệm: “Cứu một thương binh ngày ấy cũng khẩn trương, trách nhiệm... như cứu một người bệnh thời bình. Với tôi, tất cả họ đều là bệnh nhân”!

Những ngày trên đảo...

Gặp ông tại phòng khám tư của mình, sau một ca chẩn đoán bệnh từ phiếu chụp X-quang, tôi hơi ngạc nhiên bởi ông không có điều gì nổi bật so với đồng nghiệp. Nhưng càng trò chuyện tôi càng thấy ở ông, “chất lính” dường như đã ngấm vào da thịt... để rồi khi vượt ra ngoài khuôn khổ của công chức Nhà nước, của một sỹ quan quân đội, ông vẫn vững vàng.

Năm 1973, Trần Công Nghĩa đậu đại học xây dựng nhưng gia đình không có người tham gia quân đội nên ông đã rẽ ngang để theo đường binh nghiệp. Năm 1974, ông nhập ngũ và được điều vào quân đoàn 2 ở chiến trường B5 Quảng Trị. Sau giải phóng Miền nam, ông được đơn vị cử đi học ôn văn hoá để thi vào đại học Quân y. Năm 1982, sau khi ra trường, ông được điều về làm ở Viện quân y 4 - Quân khu 4 khoa điện quang. Khi xảy ra sự kiện Trường Sa ngày 14/3/1988, các Quân khu được lệnh tăng cường cho Trường Sa. Bản thân ông được điều sang tăng cường cho quân chủng hải quân làm đoàn trưởng đoàn Quân khu 4 đầu tiên đi Trường Sa và đóng chốt ở đảo Hòn Sẫm hay còn gọi là đảo Phan Vinh-mang tên người anh hùng trên chiếc tàu không số huyền thoại.
BS Trần Công Nghĩa một thời gắn bó máu thịt mình với Trường Sa.
BS Trần Công Nghĩa một thời gắn bó máu thịt mình với Trường Sa.
 
Ra đảo, nhiệm vụ của ông là cứu chữa cho tất cả cán bộ, chiến sỹ trên đảo. Thời ấy, đảo Phan Vinh chỉ có 60 cán bộ chiến sỹ bám trụ. Trên đảo không có cây mà chỉ là một phần nổi khoảng 4.000m2. Lán của bộ đội là những tấm gỗ vớt từ dưới biển lên để ghép lại và được bố trí thành vòng tròn. Ngoài cùng là công sự tiếp đến là nhà ở và trong cùng là sân tập thể dục thể thao. Đảo Phan Vinh còn có một phần là bãi cạn dài khoảng 12km, có hai điểm chốt ở đảo nổi, khi thuỷ triều cạn có thể lội được. Ở đảo thời ấy không còn cảnh đánh nhau, chém giết nhưng luôn được đặt trong tình trạng báo động cao bởi nhiều nước trong khu vực cùng chia nhau đóng trên các hòn đảo nhỏ theo thế cài răng lược.

Khi tôi hỏi về những kỷ niệm trên đảo, ông bùi ngùi: “Nhiều kỷ niệm lắm, rất khó quên... Thời ấy khổ, những chiếc dép tông Lào khi hỏng hết không đi được, chúng tôi phải ghép hai đế lại làm một và cố định bằng dây thép gai. Còn sinh hoạt văn nghệ, anh em đã lấy những ống bơ bít bằng bao xác rắn để gõ theo nhịp, vui lắm”. Ông say sưa kể về rất nhiều kỷ niệm của một người lính đảo thiếu thốn, vất vả mà sự thiếu thốn của nhưng đồng đội ở trên đất liền chẳng thấm vào đâu. Xung quanh là mây trời sóng nước, phía ngoài xa là họng súng kẻ thù... Mạng viễn thông chưa có, tất cả tin nhà nhờ vào vô tuyến. 6 tháng mới có tàu ra đảo một lần. Những lúc ấy, đồng đội ông, ai cũng háo hức bởi tàu đến mang theo ngoài lương thực phẩm là những “mẫu” tin nhà được gói trong những phong thư. Một bức thư là tài sản chung của cả đảo. Có những câu chuyện được kể lại hàng chục lần nhưng người kể vẫn say sưa và người nghe vẫn nghe.

“Để cải thiện bữa ăn, chúng tôi phải tăng gia. Rau xanh trên đảo cũng quý như thuốc vậy. Nhưng cọng rau sam được trồng trong những thùng đạn phía dưới hầm hay những cọng giá được ủ từ những hạt đậu mà mọt đã ăn gần 1 nửa... được anh em chia đều cho những chiến sĩ bị táo bón, tiêu hoá kém”. Rồi ông kể cho tôi nghe về những lần suýt chết trên đảo. Đó là một lần vượt bãi cạn sang nhà chòi, khi kéo hàng từ tàu chuyển lên đảo và một lần khi đánh cá cải thiện bửa ăn cùng đồng đội...

“Thời ấy có bao nhiêu người Nghệ ra đảo, ông cảm giác như thế nào khi lần thứ 2 ra trận, vào cửa tử?”, tôi hỏi. Ông Nghĩa tự hào: “Lúc đầu dự kiến là người khác chứ không phải mình. Mình ra đó cảm thấy vinh dự lắm và không phải ai cũng có cái vinh dự ấy. Nhiều người cứ nghĩ ra trận, ra đảo thời ấy là chết, nhưng không có ai ra thì làm sao? Ra đảo, được đứng trên vùng đất thiêng liêng của tổ quốc, giữa muôn trùng khơi và bốn phía kẻ thù, cảm thấy mình phải có trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả hơn trong việc gìn giữ một phần máu thịt đó cho non sông, đất nước, cho con cháu mai sau. Thời ấy, bộ đội trên đảo hầu hết là người Nghệ Tĩnh”. Ông tiếp: “Cậu không thể hiểu được đâu. Thời ấy, ở đâu có điểm nóng là ở đó có bộ đội Nghệ Tĩnh vì họ có truyền thống chịu kham khổ, không đào ngũ... Còn bác sỹ như tôi có khoảng 40 người nhưng 2/3 là người Nghệ rồi”.

Lập phòng khám tư

Năm 1991, sau khi rời đảo về lại đất liền, ông về tiếp tục công tác tại Viện quân y 4 - Quân khu 4. Những ngày đầu khi mới về, ý tưởng lập phòng khám tư từ lúc còn ở ngoài đảo đã trổi dậy. Năm 1992 phòng khám chính thức đi vào hoạt động nhưng phải sau 3 năm hoạt động “chui”, mới có giấy phép hoạt động. Lúc đầu phòng khám là nhà cấp 4 được cải tạo từ nhà ở của gia đình. Mãi đến 2002, phòng khám mới xây dựng lại khang trang 5 tầng như hiện nay.

Phòng khám hiện có 15 người, làm việc theo giờ hành chính, không kể thứ 7, chủ nhật. Tính đến nay, sau 21 năm hoạt động, phòng khám đã đón khoảng hơn 2 triệu lượt người đến khám. Bác sỹ Trần Công Nghĩa tâm sự: “Mình luôn giữ cái tâm với nghề, không chạy theo lợi nhuận nên mới giữ thương hiệu giữ được lâu như vậy.
BS Nghĩa đang chẩn đoán bệnh qua những tấm phim Xquang.
BS Nghĩa đang chẩn đoán bệnh qua những tấm phim Xquang.

Nhiều nơi chạy theo thị hiếu siêu âm giới tính nhưng chỗ tôi, 1 năm qua không làm điều đó. Năm 2000, mình quyết định thành lập doanh nghiệp và được cấp giấy phép hoạt động của phòng khám bệnh đa khoa. Tuỳ thời kỳ, do nhu cầu bệnh nhân mà mình đầu tư cơ sở vật chất cho phù hợp. Nhiều người cũng đã chia sẻ về việc làm sao để làm phim đẹp như thế, mình chỉ trả lời được rằng, đó là cái tâm với nghề”.

Hiện ông là giám đốc phòng khám nhưng chủ yếu làm chuyên môn. Để có ngày hôm nay, ông chủ yếu là tự học, tự nghiên cứu. Ông được biết đến là người đầu tiên làm công tác xã hội hoá y tế ở vùng đất Nghệ Tĩnh, là người đầu tiên lắp máy siêu màu đốple, máy xitycenlơ, đưa điện quang số hoá mà phải 4 năm sau mới có, người đầu tiên có máy chụp Xquang căn toàn hàm ... Vì là người đầu tiên nên gặp rất nhiều khó khăn bởi chưa có cơ chế. Phải gần 10 năm sau khi phòng khám ông thành lập mới có phòng khám tư khác ra đời.

Điều ông day dứt là việc mở phòng khám không được nhiều người ủng hộ, thậm chí, nhiều người đã bằng cách này hay cách khác tìm cách ngăn cản. Ông Nghĩa tâm sự: “Mình là người “cầm đèn chạy trước ô tô”. Tồn tại được đến lúc này là nhờ ý chí và phải đương đầu rất nhiều khó khăn. Chuyển sang mở phòng khám, tôi đã chấp nhận từ cấp bậc sỹ quan xuống cấp bậc thượng sỹ, chấp nhận 25 năm bộ đội, 2 lần ra chiến trường để hưởng chế độ bệnh binh, không có chế độ hưu”.

Cậu không biết đó thôi: “Thượng sỹ mà làm Bác sỹ thì chỉ có duy nhất mình tôi mà thôi bởi theo quy định bác sỹ phải là sỹ quan. Nhưng mình vẫn tự hào vì đã cống hiến hết tuổi thanh xuân cho tổ quốc, hai nữa khi lập phòng khám này, mỗi năm đã nộp hàng trăm triệu tiền thuế, đó cũng là yêu nước vì đã góp phần trong việc xây dựng đất nước”.

Thanh Hải - Nguyễn Duy