Bài phát biểu của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tại Hội nghị Đối ngoại Đa phương

(Dân trí) - Toàn văn phát biểu của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tại Hội nghị về “Đối ngoại đa phương thế kỷ 21 và khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam" được tổ chức tại Hà Nội ngày 12/8.

Thưa các vị khách quý,

Thưa toàn thể Hội nghị,

1. Hội nghị của chúng ta đã có một ngày làm việc rất khẩn trương, hiệu quả. Đây là lần đầu tiên chúng ta tổ chức một hội nghị ở quy mô toàn quốc để bàn về Đối Ůgoại đa phương, một bộ phận rất quan trọng của chính sách đối ngoại
Việt Nam, đồng thời cũng là xu thế nổi bật của quan hệ quốc tế trong thế kỷ 21.

Chúng tôi đánh giá cao sự chia sẻ kinh nghiệm quý báu của các vị khách mời quốc tế có uy tín hàng đầu về đối ngoại đa phương. Chúng tôi trân trọng và nhất trí với nhiều ý kiến đóng góp đầy tâm huyết của Lãnh đạo các Ţộ, ban, ngành, các chuyên gia, học giả trong nước cùng đại diện các địa phương.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu bế mạc hội nghị
Phó Thủ tướng, Bộ trưởnŧ Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu bế mạc hội nghị

Thưa toàn thể Hội nghị,

2. Qua thảo luận, chúng ta đã đi đến nhận thức chung về tầm quan trọng và xu thế của đối ngoại đa phương thế giới trong thế kỷ 21. Tôi xin nhấn 3 điểm:

- Thứ nhất, đối ngoại đa phương trở thành yêu cầu cấp thiết và là
phương thức hữu hiệu của các quốc gia
, nhằm tranh thủ nguồn lực phục hồi và phát triển kinh tế cũng như định vị mình trong cục diện quốc tế đang định hình.
Sự phát triển chưa từng có của toàn cầu hóa, cách mạng thông tin và chuỗi cung ứng toàn cầu đã Ŭàm gia tăng mạnh mẽ hơn tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia, thúc đẩy sự hình thành cục diện hợp tác, liên kết đa tầng nấc.

Thế giới đang chứng kiến những thay đổi to lớn, nhất là sau khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu 2008 - 2009. Môi trường an ninh, phát triển ở các
khu vực đang chuyển biến nhanh và phức tạp. Nhiều vấn đề an ninh truyền thống vàĠphi truyền thống trở nên gay gắt, phức tạp hơn nhiều. Đó là những vấn đề rất phức tạp, đa dạng, là những vấn đề không biên giới như một số đại biểu đề cập mà không một hoặc hai quốc gia nào có thể giải quyết được những thách thức đó.

- Thứ hai, bước sang thế kỷ 21, nội hàm đối ngoại đa phương trở nên
rộng hơn, sâu hơn, mang tầm đa ngành, trong đó phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức toàn cầu là những ưu tiên hàng đầu.
Nỗ lực duy trì hòa bình và an ninh quốc tế không tách rời với nỗ lực đề cao thực thi luật pháp quốc tế và các quy tắc ứng xử chung. Hợp tác kinh tế gắn kết với phát triển bền vững, bảo vệ
môi trường. Hợp tác văn hóa - xã hội được thúc đẩy theo hướng công bằng, bền vững và đồng đều. Ưu tiên hiện nay và trong thời gian tới của các định chế, cơ chếĠhợp tác toàn cầu và khu vực là hoàn tất các Mục tiêu Thiên niên kỷ vào năm 2015, xây dựng các Mục tiêu phát triển sau năm 2015, và ứng phó với biến đổi khí hậu – thách thức lớn nhất của thời đại chúng ta.

- Thứ ba, trong cục diện “đa trung tâm” và xu thế dân chủ hóa, các chủ thể của quan hệ quốc tế và đặc biệt là định chế đa phương ngày càng đa dạng với sự tương tǡc năng động. Vai trò của các nước đang phát triển, các nền kinh tế mới nổi, cũng như tiếng nói của các tổ chức xã hội, các tập đoàn xuyên quốc gia gia tăng mạnh mẽ. Trọng tâm kinh tế, chính trị thế giới chuyển dịch từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, Ŵrong đó châu Á - Thái Bình Dương là động lực của tăng trưởng toàn cầu, đi đầu xu hướng liên kết đa tầng nấc và trở thành một trung tâm kinh tế - chính trị toàn cầu. Các định chế như Liên hợp quốc và Tổ chức Thương mại thế giới cải tổ theo hướng dân chủ hơŮ, để tiếp tục đóng vai trò nền tảng của đa phương toàn cầu. Đồng thời, hình thành nhiều cơ chế, tập hợp lực lượng đa phương mới, linh hoạt hơn, phức tạp hơn, đan xen trên mọi tầng nấc, trong đó các cơ chế hợp tác, đối thoại khu vực có vai trò không kém phᶧn quan trọng.

Ba đặc điểm lớn nói trên đã làm cho các thể chế, diễn đàn đa phương giữ vị trí quan trọng hơn tronŧ đời sống quốc tế. Tất cả các nước lớn, vừa và nhỏ đều điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng coi trọng hơn đối ngoại đa phương, bổ sung hiệu quả các biện pháp song phương. Chúng ta thấy rất rõ vai trò, tác động của các định chế đa phương trên mọi lĩnŨ vực của đời sống và ở mọi khu vực.

3. Đối với nước ta, ngay sau khi giành độc lập năm 1945, chúng Ŵa đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của các thể chế đa phương trong việc bảo đảm các lợi ích của đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại đa phương luôn giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại. Chúng ta nhận thức được rằng, tích cᷱc tham gia và đóng góp vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế chính là phương thức hữu hiệu và tạo “sức mạnh mềm” để bảo vệ độc lập, chủ quyền, phát triển, nâng cao vị thế và tạo thêm lực của đất nước. Diễn đàn đa phương là nơi ta có thể thúc đẩy các űuan tâm, làm sâu sắc quan hệ với các nước, ký kết các thỏa thuận kinh tế - thương mại, và tranh thủ rộng rãi nhất sự ủng hộ, đồng tình của quốc tế.

Hiện nay, ta đã là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực ở mọi tầng nấc, từ tiểu vùng như Hợp tác Mê Công, Hành lang Đông – Tây, đến Cộng đồng ASEAN ở Đông Nam Á, APEC ở ţhâu Á – Thái Bình Dương, ASEM, FEALAC, CIVETS, Cộng đồng Pháp ngữ ở tầm liên khu vực, và Liên hợp quốc cùng WTO, Không liên kết … ở tầm toàn cầu.

4. Với kinh nghiệm của bè bạn quốc tế và thực tiễn triển khai đối ngoại đa phương nước ta trong gần 30 năm đổi mới, chúng ta cần nhận thức đầy đủ những bài học lớn để phát huy thế mạnh của đối ngoại đa phương trong triển khai hội nhập quốc tế sâu rộng và phục vụ phát triển đất nước. Ở đây, tôi xin nêu 5 bài học lớn.

- Thứ nhất là bài học giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đồng thời đề cao chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Đây là nền tảng quan trọng để hoạch định và thúc đẩy các hoạt động đa phương. Chúng ta luôn kiên trì mục tiêu hòa bình, độc lập, hữu nghị, hợp tác và phát triển trong quan hệ quốc tế cũng như triển khai đối ngoại đa phương. Đây chính là nguyên tắc, là bản lĩnh đa phương Việt Nam, củnŧ cố niềm tin của bạn bè quốc tế về Việt Nam là “một đối tác tin cậy”. Điều này cũng giúp chúng ta có ứng xử
linh hoạt, hài hòa khi các nước, nhất là các nước lớn, có khác biệt lợi ích.

- Thứ hai là bài học nắm bắt kịp thời xu thế, quan tâm chung, tiếp cận và xử lý trên cơ sở “mẫu số chung”, đồng thời xử lý hài hòa quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc vớiĠlợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế. Đây là nét đặc thù của đa phương. Tham gia, đóng góp vào quan tâm chung, như duy trì hòa bình, ổn định, ứng phó với các thách thức toàn cầu …, chính là nhằm bảo đảm lợi ích an ninh, phát triển của nưᷛc ta, khẳng định Việt Nam là “thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.

- Thứ ba là bài học kết hợŰ chặt chẽ đối ngoại đa phương với đối ngoại song phương, triển khai đồng bộ, toàn diện các hoạt động đối ngoại đa phương của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, học giả, doanh nghiệp và nhân dân nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp, tăng cường đồng thuận trong nước Ŷà tranh thủ
rộng rãi hơn sự ủng hộ quốc tế.
Điều này phù hợp với xu thế chung trên thế giới là sự tham gia ngày càng sâu rộng của nhiều chủ thể vào hoạt động quốc tế và
đa phương.

- Thứ tư là bài học về sự tương tác biện chứng giữa nội lực và sự chuẩn bị trong nước với sức vươn và hiệu quả của đối ngoại đa phương. Chỉ từ khi đất nước bướţ vào công cuộc đổi mới từ năm 1986, đối ngoại đa phương Việt Nam mới thực sự trưởng thành và phát huy đầy đủ vai trò của mình. Đường lối của
Đại hội Đảng lần thứ XI về “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” đã tạo sức bật mới cho đa phương nước ta. Đᷓng thời, những thành tựu của đối ngoại đa phương đã góp phần quan trọng nâng vị thế đất nước lên tầm cao mới.

ĭ Thứ năm là cần có tư duy dài hạn, tiếp cận đa ngành, xử lý nhạy bén và linh hoạt để bắt kịp những chuyển biến sâu sắc và phức tạp trong cục diện
đa phương thế kỷ 21.
Đây là bài học mà chúng ta đúc kết được từ chính những bất cập trong triểŮ khai các hoạt động đa phương. Vừa qua, chúng ta chủ yếu là
tham gia các diễn đàn, còn hạn chế trong đề xuất sáng kiến, ý tưởng. Phối hợp liên ngành còn bất cập, phối hợp hoạt động ở các diễn đàn khác nhau chưa đồng bộ. Đội ngũ cán bộ còn thiếu chuyênĠnghiệp, xử lý có lúc chưa linh hoạt.

5. Thời gian 5 - 10 năm tới có ý nghĩa then chốt đối với công cuộc đổũ mới, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng bền vững, nâng cao vị thế đất nước. Đây cũng là thời điểm chúng ta đảm nhận nhiều trọng trách và hoàn tất nhiều cam kết quốc tế. Với những thành tựu của gần 30 năm đổi mới, thế và lực của nước ta hoàn toàn khác trước. Ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình, là thành viên tích cực của hầu hết các cơ chế đa phương quan trọng, lần đầu tiên có quan hệ đối tác và liên kết kinh tế sâu rộng với hầu hết các đối tác hàng đầu trên thế giới. Do đó, đã đến lúc chúng ta cần triển khai hoạt động đối ngoại với tư duy mới, cách tiếp cận mới và tư thế mới.

Trên cơ sở những bài học, tôi đề nghị các bộ, ban, ngành phối hợp chặt chẽ triển khai hoạt động đối ngoại đa phương thời gian tới theo hướng sau:

- Một là, chuyển mạnh từ tư duy “gia nhập và tham gia” sang tư duy
ļB>“chủ động đóng góp, khởi xướng và tích cực tham gia định hình”, tăng cường cách tiếp cận đa ngành, chú trọng nội hàm phát triển bền vững. Các bộ, ban, ngành cần chủ động đóng góp vào các quan tâm chung, đẩy mạnh đề xuất sáng kiếnĬ ý tưởng. Trong đó coi trọng xây dựng Cộng đồng ASEAN, hợp tác ASEAN lục địa, các cơ chế tiểu vùng sông Mê Công. Nâng cao hiệu quả tham gia Liên hợp quốc, WTO, APEC, ASEM và các khuôn khổ hợp tác khác. Cân nhắc tham gia, đồng khởi xướng các cơ chế hợŰ tác mới.

- Hai là, khẩn trương đề xuất định hướng tổng thể và dài hạn của đối ngoại đa phương Việt Nam troŮg 10 - 20 năm tới. Đây là điều kiện tiên quyết nâng tầm đối ngoại đa phương đáp ứng các yêu cầu mới của HNQT toàn diện. Như đề xuất của nhiều đại biểu, tôi đề nghị sau Hội nghị Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành sớm triển khai nhiệmĠvụ này, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

- Ba là, trong giai đoạn từ nay đến 2020, đối ngoại giao đa phương củš ta cần tập trung vào một số trọng tâm sau:

Đảm nhận thành công các trọng trách và đăng cai tổ chức cǡc hoạt động đa phương lớn, đặc biệt là đăng cai Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới năm 2015; đảm nhận vai trò thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 và Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc ECOSOC nhiệm kỳ 2016 - 20ı8; đăng cai Hội nghị Cấp cao APEC năm 2017; đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, ứng cử vào Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021….

Hoàn tất các cam kết quốc tế lớn có thời hạn vào 2015 – 2020, nhất là hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN và Tầm nhìn ASEAN sau 2015, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN; các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs)Ĭ
tham gia xây dựng các Mục tiêu phát triển (SDGs) của Liên hợp quốc sau năm 2015, hoàn tất các cam kết gia nhập WTO vào năm 2018 cùng các hiệp định thương mại tự do nhiều bên.

Đẩy mạnh nội hàm phát triển và ứng phó với các thách thức toàn cầu trong các hoạt động đa phương, nhằm thiết thực phục vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Trong đóĬ tiếp tục nhấn hợp tác kết nối khu vực, thu hẹp khoảng cách phát triển, đối tác phát triển, tăng trưởng bền vững, giảm nghèo, bình đẳng giới, an ninh nguồn nước, an ninh an toàn hàng hải, an ninh lương thực, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… là những lĩnh vực ta có nhu cầu tranh thủ hợp tác quốc tế và có khả năng đóng góp.

Đây là những nội hàm mới của đa phương nước ta tạo sức bật mới cho
phát triển và vị thế đất nước, đồng thời đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực cao độ.

- Bốn là, cần cải tiến, đổi mới cơ chế thông tin, phối hợp liên ngành và giữa các bộ, ban, ngành với địa phương, doanh nghiệp, phù hợp với chuyển biến của tình hình quốc tế và đáp nhu cầu mới của đất nước. Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu vừa được thành lập tháng 4 tạo nền tảng quan trọng cho việc đổi mới cơ chế phối hợp liên ngành và tư duy triển khai trong đối ngoại đa phương.Ġ

Chúng ta cần phân định rõ hơn trách nhiệm của các bộ ngành, cơ quan liên quan, phân cấp thẩm quyền quyết địnŨ, đầu mối phụ trách các vấn đề đa phương để bảo đảm hiệu quả, tính linh hoạt và tốc độ xử lý những vấn đề toàn cầu mới (tăng trưởng xanh, kinh tế biển, an ninh an toàn hàng hải…), các cơ chế mới (WEF, CIVETS, 3G…). Chúng ta cũng cần hình thành cơ chế xử lǽ vấn đề, tình huống
cấp bách của khu vực và toàn cầu. Chúng ta cần coi trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức về đối ngoại đa phương, từ đó đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và tăng cường năng lực của các địa phương và người dân tận dụngĠcơ hội.

- Đồng thời, cần coi trọng đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đa phương theů hướng chuyên nghiệp. Đây là vấn đề rất cấp bách để nước ta triển khai thành công hoạt động đa phương. Ngày nay, cán bộ làm công tác đa phương phải đáp ứng những đòi hỏi cao hơn không chỉ về tốc độ, mức độ linh hoạt, mà cả khả năng cŨủ trì và điều hành, năng lực dẫn dắt với những kỹ năng mới.

Chúng ta cần tăng cường cử cán bộ làm việc trongĠcác khuôn khổ
đa phương. Đó là sự đóng góp cần thiết vào nỗ lực chung.

Tôi đề nghị Bộ Ngoại giao chủ trìĬ phối hợp các Bộ, ngành tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế sớm xây dựng và triển khai chương trình đào tạo cán bộ đa phương Việt Nam.

Thưa toàn thể Hội nghị,

Những ý kiến trao đổi, đề xuất rất sâu sắc và tâm huŹết tại Hội nghị đã gợi mở nhiều vấn đề lớn để các bộ, ngành xây dựng định hướng và triển khai hiệu quả hơn các hoạt động đa phương trong thời kỳ mới.

Thay mặt Chính phủ Việt Nam, tôi đánh giá cao sự ủng hộ và phối hợp
chặt chẽ của Liên hợp quốc trong việc tổ chức thành công Hội nghị.

<Ő>Tôi chân thành cảm ơn những người bạn quốc tế, ông Pascal Lamy,
ông Jayantha Dhanapala, ông George Yeo và đại diện các tổ chức quốc tế luôn dành sự quan tâm và tình cảm sâu sắc đối với nhân dân và đất nước chúng tôi.

Tôi hoan nghênh và đánh cao sự phối hợp ɣhặt chẽ của các bộ, ban, ngành và địa phương trong quá trình chuẩn bị và tham gia Hội nghị.

Chúc các quý vị đại bɩểu dồi dào sức khỏe và thành công hơn nữa.


Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao ȼBR>Phạm Bình Minh