Tự trộm xe của chính mình có bị xử lý hình sự không?

Hải Hà

(Dân trí) - Theo luật sư, trường hợp xe đã được cầm cố để bảo đảm cho khoản vay, chủ xe không còn quyền quản lý, định đoạt hợp pháp đối với nó. Việc tự ý lấy lại xe là hành vi có dấu hiệu phạm tội.

Tôi cho một người bạn vay số tiền 500 triệu đồng, tài sản cầm cố là một chiếc ôtô. Do quá hạn trả nợ đã lâu nhưng người bạn này vẫn chưa trả và không còn khả năng trả nợ, tôi thông báo với anh ta sẽ bán chiếc xe này để lấy tiền trả cho khoản vay trên.

Mới đây, lợi dụng lúc tôi đỗ xe trên vỉa hè, người này đã tự ý mở cửa và lái ôtô về nhà. Trong trường hợp này, tôi có quyền yêu cầu cơ quan công an xử lý anh ta hay không?

Người gửi: Hoàng Diệu

Trả lời

Luật sư Nguyễn Văn Tuấn (Giám đốc Công ty Luật TGS, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) cho biết, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên sẽ bị xử lý hình sự về tội Trộm cắp tài sản. Trong quy định này, cụm từ "người khác" là mấu chốt, khiến nhiều người băn khoăn về việc trộm cắp xe của chính mình.

Theo khoa học pháp lý, việc trộm cắp tài sản có thể hiểu là hành vi chuyển dịch trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Trên thực tế, hành vi này làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không thể thực hiện các quyền như chiếm hữu, sở dụng, định đoạt… đối với tài sản họ được giao quản lý. Đồng thời, các quyền này thuộc về người phạm tội và người này có thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật.

Đối với trường hợp trên, trên giấy tờ thì xe thuộc về người bạn của bạn. Do đó, anh ta có đầy đủ các quyền như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt chiếc xe đó.

Tuy nhiên, do ở thời điểm xảy ra sự việc, chiếc xe đã được cầm cố để đảm bảo khoản vay nên về mặt pháp lý, hợp đồng cầm cố chiếc xe ôtô đang có hiệu lực. Điều này có nghĩa bạn đang là người quản lý hợp pháp, có quyền chiếm hữu đối với chiếc xe này.

Trong thời gian này, việc người bạn của bạn đã tự ý lái chiếc xe về nhà là hành vi mang tính chất lén lút, bí mật, nhằm để chiếm đoạt lại tài sản một cách bất hợp pháp. Bởi vậy, hành vi này có dấu hiệu cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tùy thuộc các tình tiết định khung, mức án cao nhất đối với người phạm tội này có thể lên tới 20 năm tù.