"Tôi có vi phạm pháp luật nếu sống chung với bạn trai trước hôn nhân?"

Hải Hà

(Dân trí) - Sau 4 năm yêu nhau, tôi và bạn trai quyết định đi tới hôn nhân. Tuy nhiên, trước khi làm thủ tục đăng ký kết hôn, chúng tôi muốn sống thử với nhau một thời gian để chuẩn bị cho cuộc sống vợ chồng.

Trong trường hợp này, nếu chung sống với nhau trước khi đăng ký kết hôn, chúng tôi có vi phạm pháp luật hay không?

Trả lời

Luật sư Hà Công Tâm - Chủ tịch Công ty Luật Onekey, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho biết, pháp luật Việt Nam không cho phép người đang có vợ/chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; người chưa kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng với người mà biết rõ là đang có vợ/chồng. Nếu cố tình vi phạm, tùy thuộc tính chất và mức độ của hành vi đó, người vi phạm có thể bị áp dụng chế tài xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng.

Nếu không thuộc 2 trường hợp đã nêu, các cặp đôi hoàn toàn có quyền chung sống với nhau như vợ chồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu chung sống trước khi đăng ký kết hôn, mối quan hệ của 2 người sẽ chưa được pháp luật thừa nhận và điều này sẽ không làm phát sinh nghĩa vụ vợ chồng do 2 bên chưa đăng ký.

Trong thời gian này, nếu 2 bạn sinh con, đứa trẻ vẫn sẽ được đăng ký khai sinh dù cha mẹ chưa đăng ký kết hôn. Khi đăng ký khai sinh, cán bộ hộ tịch sẽ thực hiện theo thủ tục đối với trẻ chưa xác định được cha hoặc mẹ.

Về quyền và nghĩa vụ của 2 bạn đối với đứa bé, vấn đề này sẽ được giải quyết tương tự quy định về quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ với con theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Về vấn đề tài sản, trong trường hợp việc sống chung trục trặc dẫn tới việc 2 bạn không còn muốn sống chung như vợ chồng nữa, tài sản hình thành trong thời gian này sẽ không được coi là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc phân chia tài sản trong trường hợp sống chung như này.

Do đó, nếu có yêu cầu chia tài sản, cơ quan có thẩm quyền sẽ giải quyết căn cứ thỏa thuận của các bên và theo Bộ luật Dân sự năm 2015.