Đương tỏ dần góc khuất một gia tộc (Kỳ cuối)

Cái chết của Phạm Quỳnh bi thương, nhưng không phải là một sự chấm hết. Hết tiệt như những cái chết khác. Ông chết, nhưng vẫn còn để lại một tấm lòng son với sử xanh “lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh!”.

Phạm Quỳnh và câu chuyện tiếp tục

Có một nhà thơ nước ngoài đã lấy đề tài về Phạm Quỳnh mà viết một bản trường ca.

Phạm Quỳnh và câu chuyện tiếp tục. Đó là tên một trường ca của thi sĩ người Đan Mạch tên là Erik Stinus. Thời điểm ông hoàn thành bản trường ca là một giai đoạn khó khăn và có thể nói là bi tráng của đất nước Việt Nam. Như những dòng ông viết kết thúc bản trường ca Copenhagen 17/9/1979. Thành phố Hồ Chí Minh 11/10/1980. Trong một chuyến thăm Đan Mạch tháng 7/1997, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã mang về Việt Nam trường ca này đưa cho nhạc sĩ Phạm Tuyên. Để cho chắc, nhạc sĩ Phạm Tuyên nhắn cho bà chị ruột mình là Phạm Thị Hoàn đang định cư ở Mỹ, nhờ một kênh nào đó liên lạc với Đan Mạch. Kênh liên lạc của bà Hoàn đã có kết quả. Thi sĩ Erik đã nhận được sách về Phạm Quỳnh do bà Phạm Thị Hoàn gửi tặng và ông đã sốt sắng biên thư trả lời cho bà Hoàn cùng bản sao trường ca Phạm Quỳnh và câu chuyện tiếp tục (bản tiếng Đan Mạch và tiếng Anh) do chính tay ông đề tặng.

Với bút pháp siêu thực, các chương trường ca (nếu được xuất bản) chắc sẽ mang cho người đọc nhiều sắc thái thẩm mỹ phong phú. Người chuyển ngữ ra tiếng Việt hơn 300 câu của trường ca (bản thảo hiện lưu tại gia đình nhạc sĩ Phạm Tuyên) có thể nói khá thành công là bà Trịnh Thị Ngọ, nghệ sĩ ưu tú, nguyên phát thanh viên tiếng Anh của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Xin trích ra đây bức thư của thi sĩ Erik Stinus gửi bà Phạm Thị Hoàn, con gái nhà văn hóa Phạm Quỳnh để bạn đọc biết thêm được cơ duyên ra đời của bản trường ca độc đáo này.

...Bà (con gái Phạm Quỳnh - NV) đã đặt cho tôi một câu hỏi rất khó. Đó là tại sao tôi lại biết đến cụ thân sinh của bà với công trình của một học giả về văn chương. Tôi đã cố gắng ôn lại những chặng đường của mình và những điều tôi đã đọc qua nhiều năm nhưng chưa thể làm sáng tỏ câu hỏi của bà được.
Mộ Phạm Quỳnh tại khuôn viên chùa Vạn Phước, Huế
Mộ Phạm Quỳnh tại khuôn viên chùa Vạn Phước, Huế
 
Như bà đã biết, tôi là một người làm thơ và hư cấu... Đã có biết bao điều xảy ra trên thế giới này với tôi, cũng vì vậy có biết bao nhiêu người đã tỏa sáng trong những trang tôi đã viết và những trang tôi sẽ viết.

Quê hương Việt Nam và nhân dân của bà đã ở trong tâm trí tôi nhiều năm và Pham Quynh Og Den Videre Historie (Phạm Quỳnh và câu chuyện tiếp tục) chính là một tựa đề như có sẵn trong bài thơ thứ sáu mà tôi viết về Việt Nam.

Tôi viết bằng tiếng Đan Mạch, một thứ ngôn ngữ chỉ dành cho 5 triệu người. Vì vậy những gì mà tôi viết ra thông thường khó được ai biết đến ngoài đất nước Đan Mạch. Vì vậy, tôi có phần lúng túng khi được biết là bà lại có thể biết (và do đâu?) về bài thơ của tôi, nhưng tất nhiên tôi đặc biệt vui mừng thấy bà lại có thể biết nó qua một bản dịch mà bà có được qua một trong những người bạn của tôi ở Việt Nam, tôi tin là như thế!

Tôi đã đến Việt Nam 3 lần. Lần đầu là dịp kỷ niệm lần thứ 600 nhà thơ Nguyễn Trãi. Vào dịp đó, cùng với một số nhà thơ của nhiều nước, tôi đã có dịp gặp một số nhà văn và học giả của Việt Nam. Tôi cũng đã gặp Phạm Văn Đồng và tướng Giáp. Và tôi đã được đọc nhiều sách của Việt Nam qua những bản dịch mà tôi có được. Một trong những sách đó là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cũng giống như lời tựa và bài giới thiệu mà cụ thân sinh ra bà đã giới thiệu về tập thơ, nhưng cũng có thể do một trong những người dự hội thảo về Nguyễn Trãi đã nói về công trình của Phạm Quỳnh. Tại hội thảo này có nhiều nhân vật nổi tiếng tham gia, trong đó có cả một số người Việt không sống ở Việt Nam mà ở ngoài nước. Một trong số những người đó là một học giả về âm nhạc, ông ấy đã giới thiệu cho tôi về nền âm nhạc cổ điển của Việt Nam.

Những bài thơ tôi viết bằng sự tưởng tượng của riêng mình mà không hỏi bất cứ người nào khác. Trong bản trường ca đó, bà có thể thấy những trăn trở, những giấc mơ và những niềm hy vọng của tôi qua việc phác thảo những thời điểm rối ren và đầy xáo động.

Tôi hoàn thành tác phẩm của tôi trong chuyến thứ hai thăm Việt Nam.

Đó là tất cả những gì tôi có thể nói cùng bà và tôi rất vui mừng vì đối với bà, nó cũng phản ánh một chuyện có thật về thân phụ của bà, ít nhất trong một chừng mực nào đó.

Người làm thơ có thể mong mỏi một chút rằng, họ có được vài người nghe và hiểu họ. Và chính bà lại là người đã nghe được và điều đó đối với tôi quả thật là nhiều hơn một chút.

Với lời cầu chúc nồng nhiệt nhất của tôi.

Erik Stinus

Vĩ thanh

Niềm thương cảm vượt không gian lẫn thời gian

LNV: Mới đây, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã trao cho tôi một bài viết, nói đúng hơn là một cuộc phỏng vấn với thi sĩ Đan Mạch, tác giả Trường ca Phạm Quỳnh, câu chuyện còn tiếp tục”…

Tác giả bài báo là ký giả Đặng Văn Nhâm, hiện đang sinh sống tại nước ngoài. Ký giả Đặng Văn Nhâm đã thực hiện bài phỏng vấn tại Đan Mạch ngày 3-7-1999.

Bài viết có tên “Giải oan lập một đàn tràng”.

Trước khi mất bà Phạm Thị Hoàn (chị ruột nhạc sĩ Phạm Tuyên) đã chuyển cho người em trai, nhạc sĩ Phạm Tuyên bài viết này.

Được phép của NS Phạm Tuyên, tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết nói trên.

Do một cơ duyên, chúng tôi có dịp tiếp xúc với bà Phạm Thị Hoàn, một ái nữ của cụ phạm. Bà Hoàn đã vui lòng cho tôi mượn tấm chân dung kỷ niệm của cụ Phạm để in vào quyển “Lịch sử báo chí Việt Nam” do tôi soạn thảo. Sau đó không lâu tôi đã được ông bà Hoàn cho xem một bài thơ Anh ngữ viết về cụ Phạm nhan đề: “Phạm Quỳnh and The Story Continued”. Và kèm theo phía dưới hàng chữ nhỏ hơn: Words about Viet Nam * past six... Bài thơ này gồm 10 đoạn, dài đến 377 câu thơ. Tôi đọc lướt qua bài thơ, chợt rơi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác!
Phạm Quỳnh
Phạm Quỳnh
 
Ngạc nhiên về nội dung đến tên tác giả. Tôi hỏi bà Hoàn:

- Xin chị cho biết trong trường hợp nào chị có bài thơ này?

- Đây là một bài thơ dịch ra từ nguyên tác bằng tiếng Đan Mạch, do một thân hữu của gia đình gửi cho, để kỷ niệm, bà Hoàn đáp.

Đúng rồi, cái tên Erik Stinus, viết bằng chữ “K” đúng vị Đan Mạch 100% rồi còn gì nữa chứ! Những ai đã sống ở Bắc Âu đều nhận ra ngay, tôi tò mò hỏi xem nguyên bản bằng tiếng Đan Mạch. Bà Hoàn tỏ ý rất tiếc và cho biết thâm tâm cũng đang ao ước truy tầm. Sau một tiếng thở dài nhẹ, bà Hoàn than:

- Gia đình đã bỏ rất nhiều công phu, từ mấy năm trời nay và đã nhờ đến nhiều người để truy tầm nguyên tác bằng Đan Mạch, nhưng đều vô vọng...

Tính hiếu kỳ bị kích thích, tôi sốt sắng đề nghị:

- Nếu chị chắc nguyên tác bằng tiếng Đan Mạch, tức thị tác giả là người Đan Mạch, vậy sẽ xin cố gắng giúp chị. Hy vọng sẽ có kết quả tốt!

Một thoáng vui hiện lên nét mặt ông bà Hoàn. Nhưng bà Hoàn còn dè dặt:

- Chúng tôi đã nhờ nhiều người thân có thân nhân ở Đan Mạch sưu tầm rồi mà cũng không xong.

Tôi đáp lời bà Hoàn:

- Trước hết, căn cứ trên nội dung bài thơ này, chắc chị cũng đã đồng ý không có gì đáng gọi là tuyên truyền cho cộng sản. Vả chăng chúng ta chưa một ai từng quen biết, giao du với với tác giả hay đọc những tác phẩm nào khác của ông ta! Tôi hứa sẽ tìm ra nguyên tác để so sánh và tìm ra luôn tác giả để nói chuyện xem sao...

Nghe nói thế, ông bà Hoàn đã vui hẳn lên, trao cho tôi một bản sao của tập thơ dịch bằng Anh ngữ, ủy thác cho tôi công việc tìm. Về Đan Mạch, tôi đã đem chuyện này kể cho cháu gái đầu lòng của tôi, năm nay 40 tuổi, đã nối gót tôi, hiện đang đảm trách lớp dạy Việt ngữ cho các sinh viên và học viên người Đan Mạch trên đại học. Con gái tôi cho biết ngay, ông Erik Stinus vốn là một trong số thân hữu từ lâu và nói thêm… “Ông ta từng nói với con là đã biết ba nhiều qua sách báo. Vậy ba cứ gọi điện nói chuyện với ông ta. Chắc ông ấy ngạc nhiên và vui lắm đó!”.

Tôi liền gọi điện thoại cho Erik Stinus. Tác giả đã tiếp chuyện tôi rất niềm nở. Chúng tôi có cảm tưởng như người thân lâu ngày mới gặp lại. Khi nghe tôi ngỏ ý muốn mời đến nhà dùng cơm, để có thì giờ rộng rãi nói thêm về bài thơ viết chuyện Phạm Quỳnh, Erik đã tỏ ra hết sức vui vẻ và nhận lời ngay.

Hôm đó là thứ Hai, ngày 28/6/1999, chúng tôi đã hội ngộ và hàn huyên đủ thứ chuyện, từ công việc sáng tác, sinh hoạt văn học, báo chí ở Đan Mạch, rồi lần hồi nói đến những sinh hoạt ấy ở Việt Nam. Đặc biệt, hôm đó Erik Stinus đã không quên đem cho tôi hai bản nguyên tác bài thơ dài viết về cái chết bi thảm đầy oan khuất của Phạm Quỳnh, một danh sĩ bất tử Việt Nam, nhan đề “Pham Quynh og den videre historie, ord om Viet Nam for sjette gang”.

Erik nói: “Một bản tôi tặng anh, một bản tôi tặng bà Hoàn”. Tôi tò mò hỏi Erik: “Tại sao lại còn thòng thêm câu: “ord om Viet Nam for sjette gang”(viết về Việt Nam, bài thứ sáu)? Erik đáp: “Trước sau tôi đã đến Việt Nam cả thẩy 3 lần rồi. Lần chót cách đây 2 năm. Trong thời gian đó tôi đã viết tất cả 6 bài, gồm cả thơ và truyện. Bài này là bài thứ 6! Tôi hỏi: “Erik, anh đã viết về Phạm Quỳnh trước khi đến Việt Nam, hay sau đó ?”.

- “Trước khi đến Việt Nam, tôi nhắm mục đích nghiên cứu trên lĩnh vực văn học, để viết bài cho một tờ báo ở Kobenhavn, thủ đô Đan Mạch, Cùng tháp tùng tôi còn có một nữ phóng viên nhiếp ảnh nữa. Cả 3 lần ấy, tôi đã tiếp xúc đủ mặt các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở Việt Nam. Từ Hà Nội vào miền Trung, đến Sài Gòn. Họ thuộc đủ mọi thành phần, đủ mọi khuynh hướng, từ những người có chân trong Hội Nhà văn cho đến những người cầm bút độc lập. Do đó tôi đã nghe nói đến Phạm Quỳnh...”.

Tôi hỏi tiếp: “Vậy nguyên do nào đã khiến anh cảm tác được bài thơ dài đến 377 câu như thế về Phạm Quỳnh?”.

Erik nghiêm chỉnh trả lời: “Như anh đã biết, muốn làm thơ phải có cảm hứng. Nguồn cảm hứng ấy đã đến với tôi rất mãnh liệt, sau 3 lần đến Việt Nam, lần nào tôi cũng nghe hầu như tất cả các nhà văn, nhà thơ, học giả Việt Nam... đều nhắc đến tên Phạm Quỳnh. Đặc biệt nhất là ai cũng tỏ ra hết sức thành thật thương tiếc cho cái chết của Phạm Quỳnh. Họ cho rằng đó là một sai lầm đáng tiếc của những người làm cách mạng lúc bấy giờ. Họ nêu giả thiết, nếu Phạm Quỳnh còn sống chắc chắn trong thời gian sau sẽ giúp ích rất nhiều cho dân tộc Việt Nam trên bình diện văn hóa, học thuật... Ông là biểu tượng của thế hệ thanh niên trí thức Việt Nam. Người ta cần phải soi gương cần cù hiếu học của ông!”. Ngừng một lát Erik còn chỉ cho tôi đọc thêm một đoạn văn trong phần phụ lục và nói: Tôi còn biết Phạm Quỳnh đã nói một câu trở thành danh ngôn mà người Việt Nam nào cũng nhắc đến. Đó là câu: “Truyện Kiều của Nguyễn Du còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn” . Câu này tôi đã dịch ra tiếng Đan Mạch. Ngoài ra tôi còn biết thêm, ngày xưa trước khi chết Nguyễn Du đã nói câu: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như! Tôi ngắt lời:

- Nhưng khác với Nguyễn Du, Bây giờ anh thấy Phạm Quỳnh mới chết chưa đầy nửa thế kỷ đã có khối người khóc thương rồi.

Đặc biệt trong số còn lại có cả những người mà ngày xưa các đồng chí của họ đã từng can dự vào cái chết của Phạm Quỳnh. Càng đặc biệt hơn nữa là anh - chính anh đó. Erik Stinus! - một nhà thơ ở tận Bắc Âu xa tít tắp, chẳng liên hệ gì đến Phạm Quỳnh, cũng đã làm một bài thơ dài khóc thương Phạm Quỳnh!...”. Nghe tôi nói thế, Erik cười, một cái cười thông cảm. Sau đó tôi lại hỏi thêm:

- “Anh mất bao nhiêu thì giờ để hoàn tất thi phẩm này?”. Tôi hỏi với dụng ý. Erik đáp thành thực: “Mất hơn một tuần lễ! lúc đó tôi còn ở thành phố Hồ Chí Minh!”. Nhờ câu nói đó của Erik, tôi biết được rằng, “câu chuyện về cái chết đau thương oan khuất của cụ Phạm đã gây nên một rung động sâu xa mà dư âm lâu dài, bền bỉ đến hơn một tuần lễ trong tâm hồn nhà thơ Erik Stinus, một người đã đến từ một phương trời Bắc Âu xa lạ, với một hành trang văn hóa, tư tưởng và cảm quan hoàn toàn xa lạ trước dân tộc và đất nước Việt Nam. Cái rung động và nguồn thi hứng đã đến với Erik Stinus không ngắn ngủi như một tia chớp chợt lóe lên trên vòm trời đen thẫm rồi tắt ngấm, mà là cả một nỗi niềm day dứt sâu xa trong tình nhân loại trên mặt địa cầu.

Sau hơn bốn tiếng đồng hồ ăn uống chuyện trò, chúng tôi thấy đến lúc sắp phải chia tay, Erik đã chụp chung với tôi một tấm hình kỷ niệm ngày tao ngộ, đồng thời chụp riêng một tấm chân dung, mà bên dưới tấm hình Erik còn viết thêm cho bà Hoàn đôi lời chào mừng, để nhờ tôi chuyển đến ông bà Hoàn như một kỷ niệm của người bạn chưa từng gặp mặt. Erik cũng muốn có địa chỉ của ông bà Hoàn để trực tiếp liên lạc và sau này gửi sách biếu v.v...

Trước khi ra về Erik còn cho tôi biết thêm, ông sinh năm 1934 và ông đã có 4 con cả trai lẫn gái, với nhiều cháu nội ngoại. Hiền nội của ông là một nữ sinh trưởng ở vùng Nam Á, hiện nay là một viên chức của cơ quan UNICEF ở Đan Mạch. Erik đã đi thăm quê hương nhà vợ nhiều lần và ông cho biết rằng mỗi lần về quê vợ ông lại chạnh nghĩ đến đất nước và dân tộc Việt Nam. Tôi chợt hỏi câu hỏi cuối cùng:

- “Anh viết về Việt Nam như thế, có nghĩ ở hải ngoại sẽ có người Việt Nam cho rằng, anh theo Cộng sản Việt Nam không?”, Erik chợt khựng lại, đầy vẻ ngạc nhiên. Sau một thoáng suy nghỉ, anh đáp:

- Tôi không hiểu người Việt Nam đó trong đầu họ nghĩ gì. Nhưng anh cứ bảo cho họ biết nên đọc các tác phẩm của tôi, để tìm hiểu tôi, như vậy đàng hoàng hơn, chứ đừng suy diễn khi chưa biết tôi là ai.

Tôi nhìn xuống bài thơ anh vừa biếu tôi, thấy ngay câu đầu, đoạn một, những lời tha thiết sau đây:

Phạm Quỳnh
Phạm Quỳnh
 “Chúng ta phải nhân rằng

Ta đã làm xằng với Phạm Quỳnh

Người đã tìm ra nước Pháp đẹp xinh

Như gã đàn ông hào hoa

Còn nước Việt Nam ví là con gái.

Ta không nên gọi ông người phản bội

Trên những biểu ngữ và truyền đơn hài tội...”

 

Tôi lại nhìn xuống mấy tác phẩm của ông vừa biếu tôi. Một danh sách liệt kê các tác phẩm của anh đã xuất bản từ năm 1985 đến 1998, dài kín hết trang sách, đếm được 31 tác phẩm đủ loại. Như thế chưa phải nhiều, nhưng cũng đủ chứng tỏ Erik Stinus là một nhà văn, nhà thơ “có hàng” tại Đan Mạch. Mặc dù nước này chỉ là một bán đảo bé tí teo với khoảng 5 triệu dân, nhưng dân tộc hậu duệ của dòng dõi hải tặc Viking này đã đào tạo nên hàng chục nhân tài từng đoạt giải Nobel đủ loại, từ khoa học nguyên tử, y khoa, lý học, hoa học và văn chương v.v...

 

Nhìn tôi đọc, Erik nói thêm: “Như anh đã biết, ở đất nước nào cũng vậy, thơ rất khó tiêu thụ, không một nhà xuất bản nào chịu bỏ tiền xuất bản thơ một cách dễ dàng. Vậy mà tôi đã có cả chục thi tập phát hành rồi đó. Và tôi đã sống bằng ngòi bút của tôi!”...

 

Tóm lại hôm ấy chúng tôi đề cập đến vụ án thương tâm của cụ Phạm Quỳnh qua nhiều phương diện văn học và chính trị. Cuối cùng chúng tôi đã đi đến một kết luận: “Chỉ có tài năng văn học mới chuyên chở được tên tuổi và tư tưởng con người vượt mọi ranh giới không gian và thời gian, để trở thành bất tử trong lòng nhân loại”.

 

Đó là trường hợp của nhà học giả yêu nước Phạm Quỳnh. Cái chết của ông bi thương, nhưng không phải là một sự chấm hết. Hết tiệt như những cái chết khác. Ông chết, nhưng vẫn còn để lại một tấm lòng son với sử xanh “lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh!”.

 

Đặng Văn Nhâm

 

Theo Xuân Ba

Petrotimes