70% rau, quả không an toàn
(Dân trí) - 70% số mẫu rau ăn lá và ăn quả có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật; nhiều mẫu rau như cải, muống, dưa chuột,… còn tồn dư phân hữu cơ và hoá chất độc hại bị cấm sử dụng; một số mẫu quả như cam, xoài đều tìm thấy dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Đó là thông báo đáng giật mình của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về tình hình tồn dư thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trong rau quả ở nước ta tại Hội nghị toàn quốc về công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được tổ chức sáng qua (10/1/2007).
Tồn dư thuốc bảo vệ thực vật quá cao
Ông Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, cho biết: Kết quả điều tra về sự tồn dư hoá chất vi sinh vật và kim loại nặng trong một số loại nông sản ở nước ta từ năm 2001 đến nay đã ở mức nghiêm trọng. Tồn dư thuốc BVTV ở rau và quả rất đáng lo ngại. Đặc biệt như quả lê, táo nhập từ Trung Quốc đã tìm thấy dư lượng thuốc bảo quản vượt quá mức cho phép gần 50%.
Theo ông Bổng, có nhiều nguyên nhân khiến tình trạng rau, quả trong nước thiếu an toàn đến vậy. Ngoài yếu tố chủ quan như tình trạng thiếu cán bộ kỹ thuật hướng cách chăm sóc và phun hoá chất đúng cách thì ở nhiều nơi, người trồng rau vì mục đích lợi nhuận mà bỏ qua vấn đề Vệ sinh An toàn Thực phẩm (VSATTP).
Nhiều người trồng rau vẫn cố tình sử dụng các loại thuốc BVTV nằm ngoài danh mục cho phép của Bộ NN&PTNT. Để kích thích cho rau tăng trưởng nhanh và có mã đẹp, nhiều người không ngần ngại tăng lượng thuốc BVTV và số lần phun thuốc lên gấp nhiều lần. Nhiều địa phương vẫn chưa có quy hoạch về đất trồng rau an toàn. Hiện có tới 12% diện tích đất trông rau ở gần các khu vực bị ô nhiễm như các khu công nghiệp, đường giao thông hoặc bệnh viện.
Công tác kiểm tra quá thiếu và yếu
Rõ ràng, việc lạm dụng thuốc BVTV đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển và tính ổn định của các vùng sản xuất rau an toàn, dẫn đến sự hoài nghi của người tiêu dùng.
TS. Trần Đáng - Cục trưởng Cục VSATTP - bức xúc: Hiện nay, nước ta chưa có văn bản nào hướng dẫn thành lập mạng lưới kiểm tra giám sát sản xuất, tiêu thụ nông sản an toàn từ TƯ đến địa phương nên công tác quản lý, kiểm tra VSATTP tại các địa phương vẫn gần như “trắng”.
Ở hiều nơi, chính cán bộ cấp địa phương cũng chưa ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi trong công tác này. Vẫn có ý kiến cho rằng rằng thực hiện VSATTP hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì. Có địa phương đã xây dựng được mô hình sản xuất rau an toàn hàng trăm hecta nhưng khi không còn cán bộ giám sát, kiểm tra thì lại về điểm xuất phát ban đầu.
Theo ông Đáng, muốn nâng cao hiệu quả quản lý VSATTP cho các năm tiếp theo, cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, chất lượng VSATTP; tăng cường và đào tạo đội ngũ cán bộ đủ năng lực; cải thiện hệ thống quản lý, giám sát ô nhiễm sinh học và hoá chất độc hại tồn dư trong sản xuất nông sản; cấp chứng nhận sản phẩm nông sản đạt chất lượng an toàn - điều kiện để tiêu thụ sản phẩm.
Thanh Trầm