1. Dòng sự kiện:
  2. Định hướng cải cách tiền lương

Từ 1/1/2020: 3 chính sách mới về hưu trí có hiệu lực

(Dân trí) - “Điều kiện nghỉ hưu khi suy giảm 61 % khả năng lao động, mức lương hưu hàng tháng khi chưa đủ 20 năm đóng BHXH, điều chỉnh căn cứ đóng BHXH để tính lương hưu và trợ cấp một lần…” là những chính sách trong Luật Bảo hiểm xã hội về nghỉ hưu có hiệu lực từ năm 2020.

Từ 1/1/2020: 3 chính sách mới về hưu trí có hiệu lực - 1

Nhiều chính sách mới về hưu trí có hiệu lực từ năm 2020 (ảnh: Hoàng Mạnh)

Năm 2020: Điều kiện nghỉ hưu khi bị suy giảm khả năng lao động

Tại Điểm a, Khoản 1, Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động.

Theo đó, người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu trong điều kiện bình thường về tuổi hưu (nam 60 và nữ 55 tuổi).

Lộ trình cụ thể: Từ ngày 1/1/2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động.

Sau đó mỗi năm tăng thêm 1 tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Với thời điểm hiện nay (năm 2019), lao động nam chỉ cần đủ 54 tuổi và lao động nữ đủ 49 tuổi là đủ điều kiện về tuổi để được hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Năm 2020: Mức mới về hưởng lương hưu hàng tháng

Theo quy định của Điều 56 (Luật Bảo hiểm xã hội 2014), từ năm 2020, người lao động nam, đủ điều kiện điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật Bảo hiểm xã hội, khi có 18 năm đóng BHXHthì mức lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội.

Trường hợp lao động nữ đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật, Điều 56 quy định: Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm đóng BHXH.

Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động nam và nữ được tính thêm 2% và mức tối đa bằng 75%.

Tuy nhiên, cách tính lương hưu của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 có gây bất lợi cho lao động nữ lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng, so với lao động nam theo cách tính của Luật Bảo hiểm xã hội 2006.

Do đó, Quốc hội Khóa XIV (tháng 5/2018) đã thống nhất giao Chính phủ ban hành văn bản thực hiện chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 1/1/2018 đến ngày 31/12/2021 và bị tác động bất lợi hơn so với lao động nam.

Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 153/2018/NĐ-CP quy định mức điều chỉnh được tính bằng mức lương hưu tính theo quy định tại khoản 2 điều 56 hoặc khoản 2 Điều 74 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 tại thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu nhân với tỷ lệ điều chỉnh tương ứng với thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu. (xem cụ thể ).

Năm 2020: Tiếp tục điều chỉnh căn cứ tính lương hưu, trợ cấp một lần 

Cũng tại Điều 62 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương này thì mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần được tính như sau:

Tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 1/1/2020 đến ngày 31/12/2024 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 20 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

Trước đó, người lao động thuộc đối tượng trên khi tham gia BHXH từ ngày 1/1/2016 đến ngày 31/12/2019 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 15 năm cuối trước khi nghỉ hưu…

Điều 54: Điều kiện hưởng lương hưu:

1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi;

b) Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên;

c) Người lao động từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò;

d) Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.

2. Người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật này nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi, trừ trường hợp Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật công an nhân dân, Luật cơ yếu có quy định khác;

b) Nam từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi, nữ từ đủ 45 tuổi đến đủ 50 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên;

c) Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.

3. Lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 55 tuổi thì được hưởng lương hưu.

4. Chính phủ quy định điều kiện về tuổi hưởng lương hưu đối với một số trường hợp đặc biệt; điều kiện hưởng lương hưu của các đối tượng quy định tại điểm c và điểm d khoản 1, điểm c khoản 2 Điều này.

(Nguồn: Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014)

Hoàng Mạnh tổng hợp