1. Dòng sự kiện:
  2. Định hướng cải cách tiền lương

Người lao động nghỉ việc, DN có phải trả trợ cấp thôi việc?

Tháng 8/2012, bà Trần Tâm An (Hải Dương) vào làm việc tại một công ty có vốn đầu tư nước ngoài, được ký hợp đồng đào tạo nghề 3 tháng, mức lương 3 triệu đồng/tháng. Hợp đồng có ghi trả 1% tiền tham gia bảo hiểm thất nghiệp vào lương theo mức lương nêu trên.

Tháng 11/2012, bà An được công ty ký hợp đồng lao động chính thức và được tham gia các khoản BHXH bắt buộc. Bà làm việc liên tục đến tháng 9/2015 thì có đơn xin nghỉ việc và báo trước đủ số ngày quy định. Bà không bị phạt nhưng cũng không được nhận trợ cấp thôi việc. Bà An hỏi, công ty giải quyết như vậy có đúng quy định không?

Luật sư Trần Văn Toàn, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời trường hợp bà An như sau:

Căn cứ pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp vào thời điểm tháng 8/2012 quy định tại Điều 2 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP , người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo khoản 3, Điều 2 Luật BHXH năm 2006 là công dân Việt Nam giao kết các loại hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc sau đây với người sử dụng lao động:

- Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.

- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

- Hợp đồng làm việc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.

- Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, kể cả những người được tuyển dụng vào làm việc tại các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước trước ngày Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp Nhà nước.

Theo quy định nêu trên, trường hợp bà An trong thời gian thực hiện hợp đồng đào tạo nghề 3 tháng (từ tháng 8/2012 đến hết tháng 10/2012) không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Doanh nghiệp tổ chức đào tạo nghề đã hỗ trợ cho bà An 1% mức lương, tương đương với mức đóng bảo hiểm thất nghiệp là có lợi cho bà.

Điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc

Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định, khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật BHXH và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.

Bà An ký hợp đồng lao động với công ty từ tháng 11/2012, đến tháng 9/2015 thì có đơn xin nghỉ việc và báo trước đủ số ngày quy định, được công ty đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động. Căn cứ Khoản 2, Điều 48 Bộ luật Lao động, trong thời gian thực hiện hợp đồng lao động bà An và công ty có tham gia bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc nên Công ty không phải chi trả trợ cấp thôi việc cho bà.

Căn cứ Điều 46, Điều 49 Luật Việc làm , trường hợp bà Tâm An đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp. Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, bà cần nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm dịch vụ việc làm. Mức hưởng, thời gian, thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp thực hiện theo quy định tại Điều 50 của Luật này.

Theo Chinhphu.vn

* Thông tin chuyên mục có giá trị tham khảo với người đọc, không dùng làm tài liệu trong tố tụng pháp luật.