Áo dài Việt Nam: Từ trống đồng Đông Sơn đến “đấu trường” nhan sắc quốc tế

(Dân trí) - Từ bao đời nay, tà áo dài truyền thống luôn được xem như một biểu tượng văn hoá của đất nước và con người Việt Nam.

Tuy nhiên, ít ai biết được rằng, thứ trang phục truyền thống này từng xuất hiện rất sớm trong lịch sử và có một đời sống khá thăng trầm.

Áo dài trên mặt trống đồng Đông Sơn

Theo tìm hiểu của các nhà nghiên cứu văn hóa thì những hình ảnh trên mặt chiếc trống đồng Đông Sơn (700 TCN - 100) cho thấy hình người Việt cổ thời đó đã mặc trang phục với hai tà áo xẻ đôi. Loại trang phục này được nữ giới sử dụng phổ biến kéo dài từ năm 2000 trước công nguyên cho tới năm 200 sau công nguyên. Thời kỳ này, trang phục áo dài chưa bị ảnh gì bởi phong kiến và văn hóa của Trung Quốc. Nhìn vào họa tiết của trang phục trên trống đồng Đông Sơn có thể thấy có những nét quen thuộc mà trên chiếc áo dài hiện đại bây giờ cũng có.

Hình minh họa cho sự tiến hóa của áo dài từ thời văn hóa Đông Sơn đến thời nhà Lý. Ảnh: TL.
Hình minh họa cho sự tiến hóa của áo dài từ thời văn hóa Đông Sơn đến thời nhà Lý. Ảnh: TL.

Sử gia Đào Duy Anh từng viết rằng: “Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải”.

Sự tiến hóa của áo dài thời Trần - Lê. Ảnh: TL.
Sự tiến hóa của áo dài thời Trần - Lê. Ảnh: TL.

Từ triều đại nhà Lý, thế kỷ XI đến thế kỷ XII, nước ta chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Quốc nên trang phục áo dài cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Bộ trang phục lúc này có tới 3-5 lớp, có lẽ do khí hậu lạnh của phương Bắc mà những chi tiết như chiếc khăn choàng cũng được tận dụng triệt để. Ở giai đoạn này có thể thấy một điểm chung là ống tay áo rất to và dài. Cùng với đó, kiểu tóc thường thấy nhất của những người phụ nữ dưới thời này là búi cao. Tuy nhiên từ thế kỷ 16-18 thì những người phụ nữ bắt đầu phô ra vẻ đẹp mái tóc của mình bằng cách buông xõa. Quần áo cũng vẫn nhiều lớp nhưng tổng thể có phần nhẹ nhàng và thanh thoát hơn.

Áo giao lãnh bốn vạt

Dưới thời nhà Lê, bộ trang phục được thay đổi nhiều nhất, liên tục tiến hóa và gần như thay đổi hoàn toàn kiểu dáng so với những bộ trang phục trước đó. Thời kỳ này, áo dài là dạng áo giao lãnh bốn vạt, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa người nữ búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái).

Áo dài thế kỷ 16 đến 17. Ảnh: TL.
Áo dài thế kỷ 16 đến 17. Ảnh: TL.

Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ. Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước.

Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.

Áo dài thời nhà Nguyễn

Bước sang thời nhà Nguyễn, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam. Trước làn sóng “nhập cư” của hàng vạn người Minh Hương, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam như sau: “Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép ...” (Trích từ sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên).

Áo dài thời Nhà Nguyễn đến giữa thế kỷ XX. Ảnh: TL.
Áo dài thời Nhà Nguyễn đến giữa thế kỷ XX. Ảnh: TL.

Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy”. Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739-1765).

Bước đột phá táo bạo, góp phần hình thành kiểu dáng của áo dài ngày nay chính là kiểu áo dài “Le Mur” do họa sĩ Cát Tường sáng tạo vào năm 1939. Khác với phom dáng rộng truyền thống, áo dài Le Mur ôm sát đường cong cơ thể với nhiều chi tiết Âu hóa như tay phồng, cổ khoét hình trái tim, đinh nơ… Chiếc áo “lai căng” này bị dư luận thời đó lên án mạnh mẽ, cho là không đứng đắn nên chỉ có giới nghệ sĩ phong cách tân thời mới dám mặc. Đến năm 1943 thì kiểu áo này dần bị lãng quên.

Những năm 1960, nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn đã đưa cách ráp tay raglan vào áo dài. Với cách ráp này, tay áo được nối từ cổ xéo xuống nách. Tà trước nối với tà sau qua hàng nút bấm từ cổ xuống nách và dọc theo một bên hông. Kiểu ráp này vừa giảm thiểu nếp nhăn ở nách, cho phép tà áo ôm khít theo đường cong người mặc, vừa giúp người phụ nữ cử động tay thoải mái, linh hoạt. Từ đây, chiếc áo dài Việt Nam đã được định hình.

Áo dài trên “đấu trường” nhan sắc quốc tế

Đầu những năm 1960, bà Trần Lệ Xuân, vợ của ông Ngô Đình Nhu, đã thiết kế ra kiểu áo dài hở cổ, bỏ đi phần cổ áo, hay còn gọi là cổ thuyền, cổ khoét. Chiếc áo dài nổi tiếng với tên gọi áo dài Bà Nhu đã vấp phải phản ứng mạnh mẽ vì đi ngược với truyền thống và thuần phong mỹ tục của xã hội thời đó. Ngày nay, áo dài cổ thuyền rất được ưa chuộng vì sự thoải mái, phù hợp với khí hậu nhiệt đới của nó.

Những năm 1960, áo dài chít eo thách thức quan điểm truyền thống trở thành kiểu dáng thời thượng. Lúc này, chiếc áo nịt ngực tiện lợi đã được sử dụng rộng rãi. Phụ nữ thành thị với tư duy cởi mở muốn tôn lên những đường cong cơ thể qua kiểu áo dài chít eo rất chặt để tôn ngực.

Áo dài Việt Nam: Từ trống đồng Đông Sơn đến “đấu trường” nhan sắc quốc tế - 5

Gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở nên thịnh hành trong giới nữ sinh vì sự thoải mái, tiện lợi của nó. Tà áo hẹp và ngắn đến gần đầu gối, áo rộng và không chít eo nhưng vẫn may theo đường cong cơ thể.

Sau những năm 1970, đời sống đổi mới đã khiến chiếc áo dài dần vắng bóng trên đường phố. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, chiếc áo dài đã trở lại với nhiều kiểu dáng, chất liệu khác nhau qua các bộ sưu tập đầy sáng tạo và phá cách của các nhà thiết kế Võ Việt Chung, Sĩ Hoàng, Thuận Việt… Không chỉ dừng lại ở kiểu dáng truyền thống, chiếc áo dài đã được cải biên thành áo cưới, áo tà ngắn để mặc với quần jeans…

Bộ áo dài của Phạm Hương mang đi tham dự Miss Universe 2015.
Bộ áo dài của Phạm Hương mang đi tham dự Miss Universe 2015.

Áo dài xuất hiện ngày càng nhiều trong các sự kiện quan trọng của đời sống thường nhật như: đám cưới, sinh nhật, mừng thọ, hội làng... Điều đáng nói là áo dài luôn là lựa chọn hàng đầu của các người đẹp ở phần thi trang phục truyền thống khi tham gia các “đấu trường” nhan sắc trong nước và quốc tế. Những bộ áo dài truyền thống của Phạm Hương, Trần Ngọc Lan Khuê, Phạm Thúy Vân… từng gây ấn tượng rất lớn đối với bạn bè quốc tế.

Hà Tùng Long (tổng hợp)

Dòng sự kiện: Lễ hội Áo dài 2016