Quán đợi

(Dân trí) - Chồng mất, nhà còn hai mẹ con côi cút. Vốn liếng anh để lại chẳng nhiều, vườn tược lại chẳng có, mẹ con chị không biết bám vào đâu mà sống. Chị suy nghĩ lung lắm mới quyết định mở quán tạp hóa nhỏ, bày thêm vài bàn giải khát.


Quán đợi



Thấy chị lục đục xây quán ngay trước nhà, thiên hạ xì xào “Chồng nằm xuống, mồ còn chưa xanh cỏ mà đã xây cất quán sá đòi chường mặt ra đường làm con buôn”. Chị nghe mãi chỉ biết chậc lưỡi “thôi kệ!”. Miệng lưỡi thiên hạ không quan trọng bằng miếng cơm manh áo của con chị.

Quán nằm ngay ngã ba, người xe qua lại đông đúc, kẻ vào mua hàng tạp hoá, người ghé làm ly nước giải khát,chị chắt bóp tằn tiện cũng đủ đồng ra, đồng vào. Ngày tháng cứ thế trôi êm đềm cho đến một ngày lòng chị nổi bão giông khi người cũ trở về.

Anh đi lao động nước ngoài hơn chục năm giờ mới hồi hương an cư lập nghiệp. Ngày trước anh với chị từng thề non hẹn biển nhưng đợi hoài đợi mãi anh vẫn biệt vô tăm tích, chị cất bước đi lấy chồng. Từ lúc về, hôm nào anh cũng ra quán nước của chị ngồi từ sáng đến trưa. Anh râm ran kể về cuộc sống kham khổ ở xứ người, về những vận may đã giúp anh kiếm chác được ít nhiều. Anh tỉ tê rằng từ đấy đến giờ vẫn luôn nhớ tình cũ, anh ao ước một ngày hai người về chung một mái nhà.

Chị chưa kịp mở lòng đón lại tình xưa thì đã bị dội gáo nước lạnh tê tái. Dân làng đồn ầm chuyện anh trồng cây si ở nhà chị. Người nguýt lườm trách chị chịu tang chồng chưa đầy 2 năm đã tơ tưởng bồ bịch, kẻ ganh ghét ra mặt “Trai tân lại thích gái nạ dòng!”. Thói đời ăn ở bạc, lúc mẹ con chị chật vật mưu sinh chẳng ai hỏi han đoái hoài, khi anh xuất hiện, thiên hạ lại trở chứng “quan tâm” quá đà.

Con trai đi học về ùa vào lòng chị khóc nức nở. Đứa trẻ lên 7 mếu máo hỏi “Mẹ sắp bỏ con đi lấy chồng à, các bạn bảo con là đứa lạc loài...”. Chị không nói nên lời, chỉ biết uất hận số phận mình đa đoan. Từ đấy, chị tránh mặt anh hẳn. Anh đến chị đuổi như đuổi tà, anh lững thững quay về, chị nhốt mình một góc, khóc như ri. Rồi chị cũng cất được mối tình đầu, anh lại bỏ xứ đi xa, chị không một lần dám ngoái nhìn lại những chuyện xưa cũ. Quán nhỏ từ đó trống huơ trống hoắc.

Con trai chị giờ đã nên người, nó xin được học bổng sang trời Tây du học. Nó đi miết, hai năm mới về thăm nhà một lần. Thấy mẹ lầm lũi một mình nơi quán nhỏ giữa đường đông, nó bảo mẹ tìm cho nó một ông bố dượng. Mẹ nó cười lẩn thẩn “ngần này tuổi rồi biết tìm ai, đợi ai?”

Cữ đấy có mấy người làm dự án cầu đường thường ghé quán chị uống nước. Hay đến nhất là người chủ thầu tóc đã phong sương hai màu, người ốm nhom ốm nhách. Lâu dần thành quen, họ nói chuyện hợp rơ. Gặp bữa cơm, chị mời anh ở lại ăn chung. Thằng con chị thấy mẹ có bạn hàn huyên sớm tối thì khấp khởi mừng thầm. Trước khi bay nó còn nửa thật nửa đùa hai người làm đám cưới thì nhất quyết nó sẽ về.

Xây xong cầu, anh cũng đi, anh hứa hẹn lên thị trấn thu xếp công chuyện xong sẽ trở lại tìm chị, hai người tổ chức vài mâm rồi về ở với nhau. Lâu rồi chị mới có lại cảm giác xốn xang, hạnh phúc, chị không ngờ đời mình cuối cùng cũng có một chỗ dựa lúc tuổi già sắp ập đến. Rồi chị ngồi đợi, ngày cứ qua.

Cả năm liền không thấy anh quay lại, chị cố liên lạc nhưng vô ích. Tin tức cuối cùng về anh chị nghe được là từ miệng bà vợ. Vợ anh đến trút lên chị những lời đay nghiến cay độc. Chị bật khóc tủi nhục, thương phận mình ngốc dại, dám thương một kẻ qua đường, dám tin những lời đường mật rằng anh đã li dị, rằng anh cô đơn, khổ cực. Cuối cùng cũng chỉ có quán tạp hóa nhỏ là chung thủy với chị. Bao năm rồi chỉ mình nó hiểu những đợi chờ.

May