DMagazine

3 kịch bản với đại dịch viêm phổi Vũ Hán

(Dân trí) - Các chuyên gia đang đặt ra một câu hỏi, khi nào thì đại dịch viêm phổi gây ra do virus corona mới kết thúc, trong bối cảnh nó đang hoành hành tại Trung Quốc với hơn 360 người thiệt mạng, hơn 17.000 trường hợp nhiễm bệnh, và lan ra nhiều nước trên thế giới.

Số liệu về virus corona (cập nhật đến ngày 3/2)

Địa điểm Số ca nhiễm Tử vong
Toàn thế giới 17.386 362
Trung Quốc đại lục 17.205 361
Hong Kong 15 
Macao 8 
Đài Loan 10 
Các nơi khác tại châu Á 95 1
Châu Âu 23 
Bắc Mỹ 12 
Châu Đại Dương 12 
Các nơi khác 5 

Số ca tử vong và nhiễm mới do virus corona chủng mới (2019-nCoV) đang không ngừng gia tăng tại Trung Quốc. Tính tới ngày 3/2, virus corona chủng mới đã làm 361 người tử vong và hơn 17.200 ca nhiễm tại Trung Quốc. Trên thế giới, 26 quốc gia, vùng lãnh thổ cũng ghi nhận các trường hợp mắc virus corona, trong đó có 1 ca tử vong tại Philippines. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ngày 31/1 tuyên bố tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu đối dịch viêm phổi do nCoV gây ra.

Chỉ 1 tháng trước, virus corona chưa được giới khoa học biết đến. Giờ đây, các chuyên gia y tế đang chạy đua với thời gian để hiểu rõ về nó và cố gắng ngăn chặn một đại dịch ra lan trên toàn cầu.

Hiện dịch bệnh mới ở giai đoạn đầu. Cho tới nay, vẫn còn những câu hỏi quan trọng về virus này cần được làm rõ như: nó lây truyền thế nào và nguy hiểm ra sao. Nhưng các chuyên gia vẫn đặt ra một câu hỏi: khi nào và bằng cách nào đại dịch này chấm dứt? Dưới đây là 3 kịch bản có thể xảy ra.

1, Kiểm soát đại dịch thông qua các biện pháp y tế

3 kịch bản với đại dịch viêm phổi Vũ Hán - 1

Bên trong một khu điều trị bệnh nhân bị nhiễm virus corona tại Vũ Hán, Trung Quốc ngày 28/1. (Ảnh: China Daily)

Đây là kịch bản tốt nhất, và là kịch bản từng xảy ra với đại dịch Sars vào năm 2003.

Sars, giống virus mới, cũng là một virus corona - một nhóm virus gây bệnh ở các loài chim và động vật có vú. Có một số virus corona được biết tới trước đó lây nhiễm ở người; các chủng khác lây nhiễm ở động vật.

Sars chủ yếu lây nhiễm ở động vật, nhưng có thể lây nhiễm sang người và lây nhiễm giữa người với người. Vào cuối năm 2002 và 2003, Sars đã khiến 8.096 người nhiễm bệnh, chủ yếu tại Trung Quốc, và cướp đi sinh mạng của 774 người tại 17 quốc gia.

Nhưng đáng chú ý là đến năm 2004, Sars về cơ bản đã biến mất. “Sars là một trường hợp điển hình cho thấy các biện pháp y tế khác nhau đạt được hiệu quả và ngăn chặn sự bùng phát của dịch bệnh”, Jessica Fairley, một giáo sư về y tế toàn cầu tại Đại học Emory (Mỹ), giải thích.

Trong đại dịch Sars, giới chức y tế đã nỗ lực nhận dạng các ca lây nhiễm nhanh nhất có thể và khoanh vùng những người nhiễm bệnh. Bằng cách đó, hệ thống miễn dịch của các bệnh nhân có thể chiến đấu với virus mà không lây truyền cho những người khác.

Viễn cảnh này cần nhiều sự phối hợp giữa các bên: Các bác sĩ tìm hiểu virus, các cuộc điều tra nhằm vào từng trường hợp để xác định xem ai có liên hệ gần gũi với nhau, và các biện pháp kiểm soát lây nhiễm chặt chẽ tại các bệnh viện.

“Và sau đó bạn cần có nhiều biện pháp khác như hạn chế đi lại, cách ly hoặc sàng lọc tại các sân bay”, bà Fairley nói.

Các biện pháp trên đều cho thấy hiệu quả rất nhanh trong đại dịch Sars. Sars được phát hiện đầu tiên vào tháng 2/2003. Đến tháng 3, hàng trăm người nhiễm Sars đã bị cách ly tại nhà. Các khuyến cáo đi lại đối với các khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đã được WHO đưa ra. Trong khi đó, các sân bay nhanh chóng rà soát các du khách quốc tế, đặt các câu hỏi với họ về các triệu chứng và xác định liệu họ có khả năng tiếp xúc với virus hay không. Đồng thời, các bác sĩ cẩn thận trong việc chẩn đoán bệnh và đưa bệnh nhân vào chăm sóc cách ly. Đến giữa mùa hè năm 2003, nhiều quốc gia đã tuyên bố không chế hoàn toàn được dịch Sars.

Ngày nay, Sars có thể vẫn còn ở động vật, nhưng không lây nhiễm sang người.

Tuy nhiên, có thể khó khăn hơn trong việc kiểm soát virus corona chủng mới so với việc kiểm soát Sars. Theo các chuyên gia, Sars có phần dễ khống chế hơn. Ví dụ, người nhiễm virus thường không truyền bệnh cho người khác cho tới khi họ có các biểu hiện bệnh cụ thể, như sốt. Điều đó có nghĩa là khi một người bị bệnh, họ sẽ được chăm sóc cách ly và việc lây truyền cho người khác được ngăn chặn.

“Nếu các bệnh nhân Sars truyền bệnh cho người khác trước khi các triệu chứng xuất hiện, hoặc nếu các trường hợp không có triệu chứng truyền nhiễm virus cho người khác, đại dịch trở nên khó kiểm soát hơn nhiều, thậm chí là không thể kiểm soát”, một báo cáo của WHO hồi năm 2006 về Sars viết.

Với nCoV, các nhà khoa học vẫn đang tìm hiểu xem liệu virus này có thể truyền bệnh trước khi bệnh nhân có các triệu chứng hay không. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện một trường hợp như vậy. Nếu đúng như thế, điều này khiến việc kiểm soát dịch bệnh trở nên khó hơn nhiều, vì một số người không biết họ đang bị ốm và cần được chăm sóc y tế.

Một sự thật đáng chú ý là đợt dịch mới này hiện đã lớn hơn đại dịch Sars. Một nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí khoa học The Lancet mới gây ước tính có tới 75.800 người có thể đã nhiễm virus corona tính tới ngày 25/1 tại thành phố Vũ Hán, nơi dịch bệnh bùng phát.

Dịch bệnh cũng có thể được kiểm soát nhờ việc sáng chế một loạt vắc xin mới. Tuy nhiên, dù là trong kịch bản nhanh nhất thì điều đó cũng có thể mất nhiều năm.

“Vì thế, điều quan trọng là các cơ quan y tế công cộng xử lý tốt các trường hợp nhiễm virus, chăm sóc họ, cách ly họ, và những người bị nhiễm bệnh được giữ vệ sinh tốt”, Nathan Grubaugh, nhà dịch tễ học tại Trường Y tế Công cộng Yale (Mỹ), nói.

3 kịch bản với đại dịch viêm phổi Vũ Hán - 2

Các tình nguyện viên tham gia phun thuốc phòng dịch tại Chiết Giang, Trung Quốc ngày 30/1. (Ảnh: Reuters)

2, Virus tự biến mất

Các đợt bùng phát dịch bệnh cũng giống như các vụ hỏa hoạn. Khi đó, virus giống như ngọn lửa, còn những người dễ bị nhiễm bệnh giống như nhiên liệu. Cuối cùng, một đám cháy sẽ tắt nếu nó hết nhiên liệu. Tương tự, một vụ bùng phát dịch bệnh sẽ chấm dứt nếu nó không tìm được người dễ có nguy cơ nhất để lây nhiễm.

Michael Mina, một nhà dịch tễ học tại Đại học y tế công Harvard (Mỹ), đã lấy đại dịch do virus Zika từng hoành hành trong thời gian từ 2015-2016 tại Puerto Rico và Nam Mỹ làm ví dụ cho thấy một đại dịch có thể tự kết thúc.

“Rất nhiều người nhiễm bệnh trong thời gian rất nhanh. (Có hơn 35.000 người nhiễm virus Zika trong năm 2016 tại Puerto Rico). Nhưng sau đó, số người có nguy cơ nhiễm bệnh giảm. Những người có nguy cơ nhất tiếp xúc với muỗi mang mầm bệnh đã nhiễm bệnh. Và cuối cùng là không còn nhiều trường hợp virus có thể xâm nhập và lây nhiễm”.

Zika hiện vẫn xuất hiện ở quy mô nhỏ tại Brazil, nhưng cáo báo chính thức cho thấy nó không còn lây nhiễm tại Puerto Rico.

Nhưng với virus corona chủng mới, vẫn khó để biết nó sẽ tự biến mất thế nào. Theo ông Mina, đó là bởi vì “chúng ta hoàn toàn không biết chính xác ai có dễ bị mắc virus này nhất. Có thể có những người miễn nhiễm với nó hơn những người khác - điều giúp hạn chế sự lây lan. Và một khi dịch bệnh tự thu hẹp dần, giới chức y tế công cộng sẽ có thời gian thuận lợi hơn nhằm kiểm soát nó bằng các biện pháp cách ly và sàng lọc”.

Cũng có khả năng virus phần lớn sẽ tự biến mất tại Trung Quốc, trong khi sự giám sát tốt giúp nó không lây lan sang nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Và cũng có một kịch bản không ai mong muốn. Dịch bệnh sẽ khiến nhiều người bị nhiễm hơn, có thể gây tử vong nhiều hơn. Việc đại dịch trở nên tồi tệ thế nào phụ thuộc vào các khía cạnh mà giới chức y tế đang cố gắng "giải mã": bao nhiêu người nhiễm virus đổ bệnh, bao nhiêu người trong số đó tử vong, và virus lây lan từ người này sang người khác thế nào.

“Thông thường với các đợt dịch, sẽ có đỉnh dịch và sau đó nó sẽ hạ dần”, chuyên gia Fairley nói. “Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có thể kiểm soát hoàn toàn được nó không, hay nó sẽ tiếp tục lây nhiễm”.

3) NCoV sẽ trở thành một virus thông thường

Kịch bản này từng xảy ra trước đây. Vào năm 2009, một chủng mới của virus cúm H1N1 mới đã lan ra toàn cầu trong một đại dịch. Nhưng sau đó nó trở thành một virus thông thường có thể xuất hiện vào mỗi mùa cúm, chuyên gia Mina cho hay.

Trong khi đó, chuyên gia Amesh Adalja, một học giả cấp cao tại Trung tâm an ninh y tế Đại học Johns Hopkins (Mỹ) cho biết, hiện có 4 chủng virus corona mà con người thường gặp phải như cảm lạnh thông thường hoặc viêm phổi. Có khả năng virus corona chủng mới có thể trở thành chủng virus thứ 5 như vậy, giống như cúm, nó có thể xuất hiện và đi theo mùa. Có khả năng virus corona chủng mới trở thành một virus theo mùa tại Trung Quốc. Hoặc, giống như cúm, nó sẽ lan ra khắp thế giới.

“Các chính sách của chúng ta có thể có ảnh hưởng nào đó trong việc kiểm soát đại dịch này” bên ngoài Trung Quốc, ông Adalja nói. “Tại Trung Quốc, nó có thể trở thành virus corona theo mùa”. Mặc dù vậy, ông Adalja nhấn mạnh rằng rất khó để nói chính xác điều gì sẽ xảy ra. Đây chỉ là một khả năng.

An Bình

Theo Vox