Nấm đường ruột có thể thúc đẩy ung thư ở tuyến tụy

Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ cho biết, một số loài nấm đường ruột có thể thúc đẩy sự phát triển của ung thư tuyến tụy.

Khi cho những con chuột mắc bệnh ung thư tuyến tụy dùng một loại thuốc chống nấm đã làm giảm khối u của chúng tới 40%.

Tụy là một tuyến thuộc bộ máy tiêu hóa, nằm sau phúc mạc, sau dạ dày, sát thành sau ổ bụng, vắt ngang qua các đốt sống thắt lưng trên. Tụy vừa có chức năng nội tiết (như tiết insulin đổ vào máu có tác dụng điều hòa đường huyết...) và chức năng ngoại tiết (tiết ra dịch tụy đổ vào ruột giúp tiêu hóa thức ăn).

Trong khi các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng vi khuẩn có thể di chuyển từ ruột đến tuyến tụy thì nghiên cứu này lần đầu tiên đã xác nhận rằng nấm cũng di chuyển tới tụy bằng cách đi ngược với dịch tiêu hóa vào ống dẫn tụy. Và sự thay đổi quần thể nấm có liên quan đến thúc đẩy sự hình thành và phát triển khối u. TS. George Miller - Đại học Y khoa New York, tác giả nghiên cứu cho biết.

Nấm đường ruột có thể thúc đẩy ung thư ở tuyến tụy - 1
Nấm có thể từ ruột lên tụy và thúc đẩy ung thư.

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC), ung thư tuyến tụy là một trong 10 bệnh ung thư phổ biến nhất ở cả nam và nữ tại Hoa Kỳ, nơi tỷ lệ mắc bệnh đã tăng gần 1,2% mỗi năm trong thập kỷ qua. Theo ước tính của Viện Ung thư Quốc gia Mỹ (NCI), năm 2019 sẽ có 56.770 người ở Hoa Kỳ bị ung thư tuyến tụy, trong đó, 45.750 sẽ chết vì căn bệnh này. Những con số này chiếm tới 3,2% của tất cả các trường hợp ung thư mới và 7,5% những trường hợp tử vong do ung thư.

Do vị trí nằm sâu bên trong cơ thể nên ung thư tuyến tụy rất khó phát hiện ở giai đoạn đầu. Đối với nhiều người, khi bệnh được phát hiện thì đã ở giai đoạn muộn khiến cho việc điều trị khó khăn hơn. NCI cũng ước tính rằng trong năm 2009 - 2015, chỉ có 9,3% người mắc ung thư tuyến tụy sống sót sau 5 năm hoặc hơn sau chẩn đoán.

Có nhiều loại ung thư tuyến tụy, tùy thuộc vào loại mô và vị trí xuất hiện, nhưng ung thư biểu mô tuyến tụy (PDA) là dạng phổ biến nhất, chiếm khoảng 90% ung thư tuyến tụy.

Trong nghiên cứu này, TS. Miller và các đồng nghiệp đã phân tích mẫu phân từ chuột có và không có PDA. Họ đã sử dụng các công cụ thống kê và bộ gene để theo dõi các loài và số lượng nấm trong hơn 30 tuần. Bằng cách gắn thẻ protein huỳnh quang vào nấm, nhóm nghiên cứu cũng có thể theo dõi hành trình của nấm từ ruột vào tuyến tụy. Sử dụng các biện pháp và công cụ theo dõi khác nhau này, các nhà nghiên cứu sẽ thấy được sự thay đổi của quần thể nấm trong thời gian nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, tuyến tụy bị ung thư và không bị ung thư ở chuột khác nhau về kích thước và thành phần của quần thể nấm. Họ cũng thấy những khác biệt này trong các mẫu mô tụy ở người.

Sự khác biệt đáng chú ý nhất là sự gia tăng lớn trong các loài Malassezia trong các mô ung thư. Ngoài ra, các loài nấm khác như Parastagonospora, Saccharomyces và Septoriella... cũng tăng nhưng ở mức độ thấp hơn.

Nấm Malassezia thường được tìm thấy trên da và da đầu - nguyên nhân gây ra gàu và một số dạng bệnh chàm, nấm da... Các nghiên cứu gần đây cũng đã liên kết chúng với ung thư da và đại trực tràng, đồng thời phát hiện mới này bổ sung bằng chứng cho thấy Malassezia cũng có nhiều trong khối u tụy - TS. Deepak Saxena của NYU cho biết.

Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng điều trị cho chuột bị ung thư tụy bằng một loại thuốc chống nấm mạnh là amphotericin B đã làm giảm 20-40% trọng lượng khối u. Việc điều trị này cũng làm giảm chứng loạn sản ống dẫn tụy (giai đoạn đầu trong sự phát triển của ung thư tuyến tụy) tới 20-30%.  Việc điều trị bằng thuốc chống nấm cũng giúp tăng sức mạnh chống ung thư của gemcitabine - một loại thuốc hóa trị tiêu chuẩn lên 15-25%.

Các thí nghiệm tiếp theo cho thấy ung thư tuyến tụy phát triển nhanh hơn 20% khi cơ quan này chỉ chứa các loài Malassezia. Và khi các loại nấm phổ biến khác có mặt cùng với các loài Malassezia, ung thư không phát triển nhanh như vậy.

Các nhà khoa học cho rằng Malassezia làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tụy bằng cách kích hoạt các bổ thể - một cơ chế miễn dịch. Trong cơ thể, sự kết hợp của bổ thể và kháng thể có vai trò rất quan trọng trong việc loại trừ mầm bệnh. Bổ thể được kích hoạt ngay khi mầm bệnh vừa xâm nhập cơ thể và không có tính đặc hiệu của kháng nguyên nên bổ thể được xem như là thành phần thuộc hệ thống miễn dịch bẩm sinh không đặc hiệu. Ngoài ra, kháng thể cũng có khả năng hoạt hóa một vài protein của bổ thể. Quá trình này cũng là một phần trong miễn dịch dịch thể.

Tuy nhiên, bổ thể cũng có thể thúc đẩy tăng trưởng tế bào sau khi nhiễm trùng đã được giải quyết và giai đoạn chữa lành đã bắt đầu.Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, kết hợp với các gene bị lỗi, bổ thể có thể thúc đẩy loại tăng trưởng mô tích cực xảy ra trong ung thư.

Theo Sức khoẻ & Đời sống