Có những đặc điểm này cần đề phòng ung thư trực tràng

Hà An

(Dân trí) - Hiện các nhà khoa học không rõ nguyên nhân nào dẫn đến các đột biến khiến ung thư trực tràng hình thành. Tuy nhiên, lớn tuổi, ăn ít rau, lười vận động, béo phì… đều làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Theo Mayo Clinic, ung thư trực tràng là ung thư bắt đầu ở trực tràng. Trực tràng là đoạn cuối cùng của ruột già. Nó bắt đầu ở cuối đoạn cuối cùng của đại tràng và kết thúc khi đi đến đoạn ngắn, hẹp dẫn đến hậu môn.

Ung thư trực tràng và ung thư ruột kết thường được gọi chung là ung thư đại trực tràng. Trong khi ung thư trực tràng và ung thư ruột kết giống nhau về nhiều mặt, phương pháp điều trị của chúng khá khác nhau. Điều này chủ yếu là do trực tràng nằm trong một không gian chật hẹp, hầu như không tách biệt với các cơ quan và cấu trúc khác.

Có những đặc điểm này cần đề phòng ung thư trực tràng - 1

Ung thư trực tràng thường gặp ở người trên 50 tuổi, tuy nhiên gần đây đang có xu hướng trẻ hóa (Ảnh: Mayo Clinic).

Ung thư trực tràng bắt đầu khi các tế bào khỏe mạnh trong trực tràng phát triển những thay đổi (đột biến) trong ADN của chúng.

Đối với hầu hết các bệnh ung thư trực tràng, không rõ nguyên nhân gây ra các đột biến khiến ung thư hình thành.

Di truyền đột biến gen làm tăng nguy cơ ung thư trực tràng

Ở một số gia đình, đột biến gen được truyền từ cha mẹ sang con cái làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng. Những đột biến này chỉ liên quan đến một tỷ lệ nhỏ bệnh ung thư trực tràng. Một số gen liên quan đến ung thư đại trực tràng làm tăng nguy cơ phát triển bệnh, nhưng chúng không làm cho bệnh không thể tránh khỏi.

Hai hội chứng ung thư đại trực tràng di truyền được xác định rõ là:

- Hội chứng Lynch: Hội chứng Lynch, còn được gọi là ung thư đại trực tràng không polyp di truyền (HNPCC), làm tăng nguy cơ ung thư ruột kết và các bệnh ung thư khác. Những người mắc hội chứng Lynch có xu hướng phát triển ung thư ruột kết trước 50 tuổi.

- Đa polyp tuyến gia đình (FAP): FAP là một rối loạn hiếm gặp gây ra hàng ngàn khối u trong niêm mạc đại tràng và trực tràng. Những người bị FAP không được điều trị có nguy cơ phát triển ung thư ruột kết hoặc trực tràng trước 40 tuổi cao hơn đáng kể.

Xét nghiệm di truyền có thể phát hiện những hội chứng này và các hội chứng ung thư đại trực tràng di truyền hiếm gặp hơn.

Các yếu tố rủi ro

Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ ung thư trực tràng cũng giống như những yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư ruột kết.

- Tuổi: Ung thư đại trực tràng có thể được chẩn đoán ở mọi lứa tuổi, nhưng hầu hết những người mắc loại ung thư này đều trên 50 tuổi.

- Bệnh viêm ruột: Các bệnh viêm mãn tính ở đại tràng và trực tràng như viêm loét đại tràng và bệnh Crohn làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.

- Các hội chứng di truyền làm tăng nguy cơ ung thư trực tràng: Các hội chứng di truyền qua nhiều thế hệ trong gia đình bạn có thể làm tăng nguy cơ ung thư ruột kết và trực tràng, bao gồm hội chứng FAP và Lynch.

- Tiền sử gia đình mắc ung thư đại trực tràng: Bạn có nhiều khả năng phát triển ung thư đại trực tràng nếu bạn có cha mẹ, anh chị em ruột hoặc con bị ung thư ruột kết hoặc trực tràng.

- Ăn một chế độ ăn ít rau: Ung thư đại trực tràng có thể liên quan đến chế độ ăn ít rau và nhiều thịt đỏ, đặc biệt khi thịt bị cháy hoặc chín kỹ.

- Tập thể dục quá ít: Nếu bạn không hoạt động, bạn có nhiều khả năng phát triển ung thư đại trực tràng. Hoạt động thể chất thường xuyên có thể làm giảm nguy cơ ung thư.

- Bệnh tiểu đường: Những người mắc bệnh tiểu đường túyp 2 kiểm soát kém có thể tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.

- Béo phì: Những người béo phì có nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng cao hơn so với những người có cân nặng khỏe mạnh.

- Hút thuốc: Những người hút thuốc có thể tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.

- Uống rượu: Thường xuyên uống nhiều hơn ba loại đồ uống có cồn mỗi tuần có thể tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng

- Xạ trị cho bệnh ung thư trước đó: Xạ trị hướng vào bụng để điều trị ung thư trước đó có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.