Bị ung thư thực quản nhiều nguy cơ mắc thêm ung thư thứ 2

Bị ung thư thực quản thường có nguy cơ mắc thêm ung thư thứ hai: ung thư vòm hay hạ họng thanh quản hoặc ung thư bàng quang.

Nhiều bệnh lý dẫn tới ung thư thực quản

Ung thư thực quản đứng thứ 9 trong các bệnh ung thư trên thế giới, đứng thứ 3 trong các ung thư đường tiêu hóa sau ung thư dạ dày, ung thư trực tràng. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc ung thư thực quản ở nam là 8,7/100.000 dân. Bệnh đứng hàng thứ 5 trong các bệnh ung thư phổ biến. 

Rượu và thuốc lá là hai yếu tố nguy cơ lớn nhất đối với ung thư thực quản biểu mô vảy. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy nhóm bệnh nhân dùng cả rượu và thuốc lá thì nguy cơ mắc ung thư thực quản biểu mô tế bào vảy tăng gấp 25 đến 100 lần. Ngoài ung thư thực quản thì nhóm bệnh nhân này còn có nguy cơ mắc thêm ung thư thứ hai như ung thư vòm họng hay hạ họng thanh quản hoặc ung thư bàng quang.

Bị ung thư thực quản nhiều nguy cơ mắc thêm ung thư thứ 2 - 1
Bệnh thường ung thư thực quản thường phát triển thầm lặng.

Bệnh Barrett thực quản, trào ngược thực quản dạ dày là những yếu tố liên quan chặt chẽ với ung thư thực quản biểu mô tuyến với tỷ lệ cao gấp 30 đến 125 lần. Những báo cáo chỉ ra rằng nguy cơ mắc ung thư thực quản tăng hàng năm ở nhóm bệnh nhân Barrett thực quản là 0,2-2%.

Các bệnh lý khác của thực quản có liên quan với ung thư thực quản: Bệnh xơ cứng bì hệ thống có ảnh hưởng lớn nhất tới thực quản trong đường tiêu hóa, hậu quả là giảm trương lực cơ thắt tâm vị dẫn đến trào ngược dạ dày - thực quản và nguy cơ ung thư thực quản. Bệnh rối loạn nhu động thực quản Achalasia đặc trưng là tăng trương lực cơ thắt tâm vị gây ứ đọng kéo dài làm tăng nguy cơ ung thư biểu mô vảy thực quản. Bệnh Tylosis cũng là một bệnh hiếm gặp xơ bì khu trú ở lòng bàn tay và chân có liên quan đến gen 17q25 gây ung thư thực quản.  Hội chứng Plummer – Vinson/Paterson –Kelly biểu hiện đặc trưng thiếu máu do thiếu sắt, viêm lưỡi, lách to, móng tay dễ gãy. 10% số bệnh nhân này có thể tiến triển thành ung thư thực quản biểu mô vảy.

Bỏng thực quản cũng là yếu tố thuận lợi cho tiến triển ung thư thực quản, thời gian có thể là 40 – 50 năm sau giai đoạn bỏng. Một vài nghiên cứu cho thấy, nhiễm HPV có liên quan với ung thư thực quản biểu mô vảy ở nhóm bệnh nhân châu Á, Nam Phi. Ung thư đường hô hấp-tiêu hóa trên có nguy cơ phát triển một ung thư thứ hai với tỷ lệ là  20% mỗi năm. Hơn nữa, các nghiên cứu gần đây cho thấy, khoảng 10% số bệnh nhân ung thư đường hô hấp tiêu hóa trên sẽ mắc ung thư thực quản và cũng khoảng 10% bệnh nhân ung thư thực quản sẽ mắc thêm ung thư phổi.

Đời sống xã hội thấp, chế độ dinh dưỡng thiếu vitamin, thức ăn chứa nitrosamin làm tăng tỷ lệ ung thư thực quản biểu mô vảy, trong khi những người béo phì thì tỷ lệ ung thư thực quản biểu mô tuyến lại tăng cao.

Nuốt nghẹn, sụt cân bệnh đã ở giai đoạn muộn

Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất của ung thư thực quản chiếm 90% là nuốt nghẹn và sút cân. Thật không may khi bệnh nhân đến khám với 2 dấu hiệu này thì bệnh đã ở giai đoạn tiến triển. Nuốt nghẹn thường xuất hiện từ từ, tăng dần, lúc đầu là nghẹn thức ăn đặc sau nghẹn cả lỏng. 20% số bệnh nhân có biểu hiện đau khi nuốt hay đau xương ức.

Dấu hiệu ho, nấc hay khàn tiếng là những biểu hiện tổn thương ung thư lan tới hạch khí quản, dây quặt ngược. Một số bệnh nhân có ho máu hay nôn máu khi u hoại tử gây rò thực quản – khí quản.

Hiện nay, mặc dù có nhiều tiến bộ trong điều trị đa mô thức: Phẫu thuật, xạ trị, hóa trị nhưng ung thư thực quản vẫn là một trong những bệnh ung thư đặt ra nhiều thách thức với chúng ta bởi tỷ lệ sống sau 5 năm vẫn chỉ là 20 – 25%.

BS Tuấn Anh, Bệnh viện K
Theo Khoa học và đời sống