Ba người chết vì ung thư sau khi ghép tạng từ một phụ nữ

(Dân trí) - Xét nghiệm ADN xác nhận các khối u của 4 bệnh nhân phù hợp với ung thư vú từ người phụ nữ đã chết vì đột quỵ trước khi phát hiện bệnh.

Tỷ lệ sàng lọc nội tạng của người cho không phát hiện được điều này chỉ là 1/10.000
Tỷ lệ sàng lọc nội tạng của người cho không phát hiện được điều này chỉ là 1/10.000

Các bác sĩ đã báo cáo trường hợp ba bệnh nhân tử vong do ung thư vú bị mắc từ một người hiến tạng duy nhất, một phụ nữ 53 tuổi đã hiến thận, phổi, gan và tim để ghép tạng.

Sau khi bị đột quỵ vào năm 2007, các tạng của người phụ nữ này được hiến cho năm người, nhưng lúc đó các bác sĩ chưa biết về chẩn đoán của bà và bốn bệnh nhân đã mắc ung thư vú “có nguồn gốc từ người hiến tặng”.

Người nhận thứ năm chết trong vòng năm tháng sau khi nhận được ghép tim do nhiễm trùng huyết, trong đó hệ miễn dịch bắt đầu tấn công cơ thể để phản ứng với tạng lạ hoặc nhiễm trùng nghiêm trọng khác.

Bệnh ung thư của các bệnh nhân lần đầu tiên được ghi nhận sau 16 tháng ghép tạng, mặc dù một số người khác mất đến 6 năm để ung thư lan rộng và được phát hiện.

Sử dụng xét nghiệm AND các bác sĩ đã so sánh cấu trúc di truyền của các tế bào ung thư ở từng bệnh nhân với người hiến tạng ban đầu và chứng minh rằng tế bào ung thư trong các tạng cấy ghép là thủ phạm.

Các chuyên gia cho biết chỉ có khoảng 1/10.000 (0,01 đến 0,05%) khả năng xét nghiệm sàng lọc kiểm tra sự phù hợp của người cho tạng không phát hiện được điều này và ghép một cơ quan đã bị nhiễm bệnh.

BS. Yvette Matser, từ Trung tâm Y tế Đại học VU, Hà Lan, tác giả chính của báo cáo trên tạp chí American Journal of Transplantation, nhận xét: “Tỷ lệ truyền bệnh ác tính cực thấp trong ghép tạng chứng tỏ hiệu quả của các hướng dẫn hiện hành”.

Hướng dẫn nói rằng sử dụng chụp cắt lớp vi tính để kiểm tra kỹ người hiến tạng là không thực tế và làm tăng nguy cơ dương tính giả sẽ “thu hẹp số người hiến tạng vốn đã rất ít ỏi”.

Việc khám xét, bao gồm khám vú, để tìm khối u đã được khuyến cáo và cần luôn được thực hiện.

Trong trường hợp này, có thể việc giữ ấm các tạng ghép đã cho phép các tế bào ung thư lưu hành rộng hơn.

Bệnh nhân đầu tiên bị bệnh là một phụ nữ 42 tuổi được ghép hai phổi, nhưng đến thời điểm chẩn đoán bệnh đã di căn đến xương, và bệnh nhân qua đời vào năm 2009.

Các bác sĩ cảnh báo những bệnh nhân còn lại về nguy cơ. Bệnh nhân nam và bệnh nhân nữ mỗi người từng nhận một quả thận từ người hiến tạng đã được xét nghiệm, nhưng chỉ bắt đầu có dấu hiệu của bệnh vài năm sau đó.

Bệnh nhân nam đã phải cắt bỏ thận sau khi phát hiện khối u vào năm 2011, bệnh nhân được hóa trị kèm theo ngừng các thuốc ức chế miễn dịch dùng cho người ghép tạng và hiện vẫn không bị ung thư.

Hai bệnh nhân nữ còn lại, được ghép thận và gan, đã chết sau khi ung thư di căn.

Một trong số họ, một phụ nữ 59 tuổi được ghép gan, đã từ chối cắt bỏ gan khi khối u được phát hiện lần đầu tiên vì lo ngại về các biến chứng tiếp theo.

Những người được ghép tạng phải uống thuốc ức chế miễn dịch mạnh để ngăn chặn thải tạng ghép và điều này có thể làm cho các tế bào ung thư khó bị xóa sổ.

"Trường hợp đặc biệt này chỉ ra những hậu quả chết người của ung thư vú có nguồn gốc từ người cho tạng và cho thấy rằng việc loại bỏ các tạng từ người cho và phục hồi miễn dịch có thể làm thuyên giảm hoàn toàn", các tác giả viết.

Cẩm Tú

Theo Independent