1. Dòng sự kiện:
  2. Kết quả kinh doanh

Năng suất lao động ở Việt Nam: Ngành khai khoáng vô địch!

(Dân trí) - Trong khi đạt mức bình quân hơn 3.600 USD/người năm 2015 và đang thua Singapore hơn 90.000 USD thì tại Việt Nam, ngành khai khoáng có năng suất lao động cao nhất với mức bình quân một lao động năm 2015 theo giá hiện hành đạt 1,74 tỷ đồng, gấp 21,9 lần mức năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế.

Năng suất lao động ngành khai khoáng gấp hơn 21 lần mức bình quân chung
Năng suất lao động ngành khai khoáng gấp hơn 21 lần mức bình quân chung

Nhiều doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam đối mặt nguy cơ phá sản

Góp phần tham luận tại Hội thảo khoa học quốc tế “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam” đang diễn ra sáng nay (25/11) do Ban Kinh tế Trung ương tổ chức, đại diện Bộ Công Thương cho biết, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ảnh hưởng lớn đến thị trường lao động, năng suất lao động nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng.

Với xu hướng siêu tự động hóa và sự tham gia của các robot thông minh, thế hệ mới, có khả năng tùy chỉnh cao sẽ có những tác động lớn đối với các ngành sản xuất công nghiệp chính của Việt Nam trong thời gian tới.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với hạn chế về năng lực đầu tư, đổi mới hoạt động sản xuất và khả năng thích ứng nhanh chóng với những thay đổi của thị trường sẽ có thể dẫn tới xu hướng suy giảm đáng kể, thậm chí phá sản của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp.

Năm 2015, Việt Nam có hơn 10,5 triệu lao động được đào tạo trong tổng số 52,9 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm, chiếm 19,9%. Như vậy, hiện có trên 42,4 triệu người chiếm 80,1% tổng số lao động) chưa được đào tạo để đạt trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó. Năng suất lao động trong giai đoạn 2005-2010 tăng nhanh 100%, tuy nhiên giai đoạn 2011-2015 tăng rất thấp chỉ khoảng 10%. Chỉ tiêu về lao động và năng suất đạt rất thấp so với mục tiêu đặt ra.

Điều này còn chứng tỏ các ngành công nghiệp chưa được như kỳ vọng là những ngành kinh tế chủ chốt, động lực thúc đẩy tăng trưởng nhanh trong nền kinh tế.

Điểm đáng chú ý là trong số các ngành kinh tế công nghiệp cấp I của Việt Nam thì ngành khai khoáng có năng suất lao động cao nhất với mức bình quân một lao động năm 2015 theo giá hiện hành đạt 1,74 tỷ đồng, gấp 21,9 lần mức năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế. Trong khi đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ yếu là gia công lắp ráp nên năng suất lao động cũng như tốc độ tăng năng suất không cao, đạt 68,8 triệu đồng/lao động, bằng khoảng 87% năng suất lao động chung toàn xã hội.

Nâng cao năng suất lao động là bài toán mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
Nâng cao năng suất lao động là bài toán mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Khoảng cách năng suất lao động với Singapore hơn 90.000 USD/người

Tại Việt Nam, năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2015 theo giá hiện hành ước tính đạt 79,3 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 3.657 USD/lao động).

Bộ Công Thương ghi nhận, cùng với quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, khoảng cách tương đối về năng suất lao động với các nước ASEAN được thu hẹp dần.

Tính chung giai đoạn 1994-2013, năng suất lao động tính theo sức mua tương đương năm 2005 của Việt Nam tăng trung bình 4,87%/năm, là mức tăng cao trong số các nước ASEAN. Nhờ đó, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn (năng suất lao động của các nước so với năng suất lao động của Việt Nam qua số tuyệt đối).

Cụ thể, nếu năm 1994 năng suất lao động của Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Indonesia lần lượt gấp 29,2 lần; 10,6; 4,6; 3,1 và 2,9 lần năng suất lao động của Việt Nam thì năm 2013 khoảng cách tương đối này giảm xuống tương ứng còn 18 lần; 6,6; 2,7; 1,8 và 1,8 lần.

Tuy nhiên, năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực, khoảng cách tuyệt đối đang ngày càng có xu hướng tăng lên. Ngoại trừ Brunei và Philippines, khoảng cách tuyệt đối (chênh lệch GDP trên mỗi lao động) giữa năng suất lao động của Việt Nam với hầu hết các nước ASEAN ở trình độ phát triển cao hơn lại gia tăng trong giai đoạn trên:

Chênh lệch giữa năng suất lao động (tính theo PPP 2005) của Singapore và Việt Nam tăng từ 62.052 USD năm 1994 lên 92.632 USD năm 2013; tương tự, của Malaysia từ 21.142 USD lên 30.311 USD; Thái Lan từ 7.922 USD lên 9.314 USD; Indonesia từ 4.104 USD lên 4.408 USD. Đáng chú ý là nếu so với Trung Quốc và Ấn Độ, năng suất lao động của Việt Nam tăng chậm hơn đáng kể, dẫn tới sự gia tăng của cả khoảng cách tuyệt đối và tương đối so với hai nước trên.

Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong việc bắt kịp mức năng suất của các nước.

Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do: quy mô kinh tế của Việt Nam còn nhỏ, xuất phát điểm thấp; cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch; lao động trong nông nghiệp và lao động khu vực phi chính thức còn chiếm tỷ lệ cao, trong khi năng suất lao động ngành nông nghiệp và khu vực phi chính thức ở nước ta thấp. Bên cạnh đó, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu; chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động chưa đáp ứng yêu cầu. Trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều bất cập.

Ngoài ra, còn một số “điểm nghẽn” và “rào cản” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính chậm được khắc phục…

Bích Diệp