Thiếu nguồn lực triển khai Khung trình độ Quốc gia?

(Dân trí) - Quyết định “Phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam” số 1982 ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ đã có hiệu lực từ 2016, tuy nhiên đến nay tiến độ triển khai khung trình độ quốc gia (VQF) vẫn chưa có nhiều kết quả.

Thông tin trên được đưa ra tại buổi tọa đàm hoàn thiện dự thảo kế hoạch triển khai Khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với các trình độ của giáo dục đại học (GDĐH) do Bộ GD&ĐT tổ chức.

Thiếu nguồn lực triển khai Khung trình độ Quốc gia? - 1

Đề xuất thành lập Hội đồng ngành xây dựng chuẩn đầu ra cho từng ngành để tạo ra những chuẩn mực đào tạo chung tối thiểu, thống nhất trong toàn quốc

Chưa hình thành được mối liên kết

Lý giải nguyên nhân của tình trạng tiến độ triển khai khung trình độ quốc gia (VQF) vẫn chưa có nhiều kết quả đối với lĩnh vực giáo dục đại học, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học – Bộ GD&ĐT Nguyễn Thu Thủy cho biết, do thiếu hụt nguồn lực để triển khai, sự phối hợp giữa cơ quan chủ trì và các cơ quan liên quan còn hạn chế.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa thực hiện công nhận kỹ năng lẫn nhau ở cấp quốc gia và chưa hình thành các cơ chế công nhận lẫn nhau ở cấp khu vực.

Mặt khác, kỹ thuật xây dựng chuẩn đầu ra (CĐR) và phát triển chương trình đào tạo trong GD ĐH còn nhiều hạn chế, giữa đảm bảo chất lượng trong các cơ sở đào tạo và VQF chưa hình thành được mối liên kết.

Lãnh đạo Bộ GD&ĐT đang dự thảo Quyết định Ban hành kế hoạch thực hiện VQF Việt Nam trong lĩnh vực GD ĐH theo 2 giai đoạn.

 Giai đoạn 1: Từ 2019-2020 với mục tiêu: Thí điểm thực hiện VQR đối với một số ngành đào tạo thuộc các lĩnh vực ngành nghề được phép di chuyển trong ASEAN để hướng tới sự công nhận lẫn nhau về triển khai kỹ năng trong ASEAN.

Ví dụ như Kế toán, Kỹ thuật xây dựng, kiến trúc, du lịch, điều dưỡng và các ngành đào tạo giáo viên thực hiện chương trình SGK mới (là lĩnh vực đặc thù cần ưu tiên của giáo dục).

Giai đoạn 2:  Từ 2020-2025 sẽ triển khai VQF đối với các ngành đào tạo khác trong GD ĐH và cập nhật đối với các ngành đã thí điểm trong giai đoạn 1.

Đề xuất thành lập Hội đồng khối ngành

Để triển khai VQF trong GD ĐH, Bộ GD&ĐT đề xuất, thành lập Hội đồng khối ngành; xây dựng hướng dẫn phát triển chuẩn đầu ra đối với ngành đào tạo; hướng dẫn chỉ đạo các cơ sở GDĐH phát triển chương trình đào tạo dựa trên chuẩn đầu ra của ngành đào tạo cho phù hợp với VQF và tiến tới công nhận lẫn nhau ở cấp Quốc gia, khu vực.

Đề xuất cơ chế đảm bảo chất lượng đào tạo dựa trên các quy định về chuẩn đầu ra của ngành và chương trình đào tạo.

Tại buổi tọa đàm, đa số các ý kiến đồng thuận về việc cần có Hội đồng ngành khi triển khai xây dựng chuẩn đầu ra của ngành.

Hội đồng này gồm: đại diện các cơ sở giáo dục đại học, Bộ quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo, Bộ quản lý lĩnh vực đào tạo của ngành và đặc biệt cần có sự tham gia của các hiệp hội nghiệp nghề, các doanh nghiệp sử dụng lao động, chuyên gia, nhà khoa học cũng như các bên liên quan khác.

Hội đồng ngành sẽ xây dựng chuẩn đầu ra cho từng ngành để tạo ra những chuẩn mực đào tạo chung tối thiểu, thống nhất trong toàn quốc đối với các ngành đào tạo nhưng không “lấn sân” hay làm thay các cơ sở đào tạo trong việc xây dựng chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo.

Điều này đặc biệt cần thiết khi Luật GDĐH sau khi sửa đổi đã mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị trong mở ngành, xây dựng chương trình, tuyển sinh, tổ chức đào tạo, đánh giá và cấp bằng.

Vụ trưởng Vụ GDĐH, Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Kim Phụng cho biết, Bộ nhất trí ưu tiên xây dựng CĐR với các lĩnh vực ưu tiên, những trường có kinh nghiệm xây dựng CĐR tốt, chọn những khối ngành ưu tiên để làm trước, đó là các lĩnh vực ngành nghề mà lao động được dịch chuyển tự do trong khối ASEAN như kế toán, du lịch, điều dưỡng, kiến trúc, xây dựng… cùng những ngành Việt Nam đang chú trọng như: đào tạo giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, những ngành liên quan đến Công nghệ thông tin và truyền thông, nông nghiệp công nghệ cao …

Bà Phụng cho hay, Bộ GD&ĐT có kế hoạch trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Khung trình độ quốc gia sẽ theo hướng có lộ trình thực hiện trong khoảng 5-7 năm để có thể cơ bản vào năm 2025 sẽ kết thúc được vòng đầu tiên để tiếp tục phát triển ở những vòng sau.

Hồng Hạnh