Đầu tư manh mún làm cản trở hoạt động nghiên cứu của trường đại học

(Dân trí) - Đầu tư manh mún, cào bằng, thiếu cơ chế chính sách, thiếu nhà khoa học đầu ngành… đã làm cản trở hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường đại học.

Đó là ý kiến của nhiều nhà khoa học tại Hội thảo khoa học: “Xây dựng cơ chế chính sách phát triển khoa học công nghệ trong các trường đại học” tại Hà Nội ngày 25/4.

Tại hội thảo, thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc cho biết, hiện nay, trong “2 chân” là đào tạo và nghiên cứu khoa học thì các trường vẫn chú trọng chủ yếu là đào tạo; còn nghiên cứu khoa học, dù đã có cải thiện lớn trong thời gian qua, nhưng so với “chân” đào tạo thì vẫn yếu.

Thứ trưởng Phúc cho rằng, nhất thiết phải thay đổi cơ chế chính sách phát triển khoa học và công nghệ trong các cơ sở GD ĐH. Những hạn chế về nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo hiện nay trong các cơ sở GD ĐH cũng cần sự khơi thông, thay đổi về chính sách.

3 dự thảo văn bản được đưa ra để lấy ý kiến góp ý tại hội thảo liên quan đến xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh; đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp (cho giảng viên); đầu tư phòng thí nghiệm gắn với chương trình nghiên cứu.

Các ý kiến nhìn chung đánh giá cao sự cần thiết phải ban hành các văn bản trên và cho rằng, đây đều là những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng lớn đến nâng cao năng lực khoa học công nghệ của các cơ sở GD ĐH.

Theo thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, với Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GD ĐH, các cơ sở GD ĐH được tăng quyền tự chủ. Trên tinh thần đó, 3 văn bản nói trên của Bộ GD&ĐT sẽ là những văn bản khung, là cơ sở pháp lý để các trường thực hiện. Trên cơ sở đó, cơ sở GD ĐH phải chủ động ban hành văn bản nội bộ, phù hợp với điều kiện thực tế của trường.

Đầu tư manh mún làm cản trở hoạt động nghiên cứu của trường đại học - 1

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc

Thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt nhóm nghiên cứu

Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tính đến năm học 2016-2017 đã có 491 nhóm giảng dạy - nghiên cứu được thành lập tại các cơ sở đào tạo. Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường ĐH, hiện nay trong hệ thống các trường ĐH đã hình thành 945  nhóm nghiên cứu (NNC), một trường ĐH có trung bình 7 NNC.

Thông qua NNC, chất lượng đào tạo tiến sỹ và chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước. Kết quả khảo sát ở ĐHQG Hà Nội cho thấy, 80% các nghiên cứu sinh trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ của trường, nhờ trưởng thành trong các NNC nên khi bảo vệ luận án TS đều đã có công bố quốc tế ISI.

100% các NCS ở ĐHQG Hà Nội có công bố quốc tế đều tham gia trong các NNC. Năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, chỉ ở mức 2.309 bài.

Tuy nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập (Trường ĐH Duy Tân), tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng công bố quốc tế của 30 trường ĐH Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài.

Con số này hơn cả giai đoạn 5 năm trước đó (2011-2015), khi toàn Việt Nam mới có 10.034 bài. Nếu chỉ tính riêng các công bố quốc tế thuộc Scopus của Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây (2009-2018) đã tăng gần 5 lần.

Là trưởng nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức - Trưởng ban Đào tạo ĐHQG Hà Nội  cho biết, sự gia tăng của các NNC trong các trường ĐH tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng công bố quốc tế.

NNC chính là một trong những giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu, nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ nhân lực KH&CN cũng như nâng cao xếp hạng của trường ĐH.

Tuy nhiên, theo GS Đức, tồn tại, hạn chế chủ yếu của các NNC hiện nay  ở các trường là thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt NNC; số lượng công bố quốc tế của các NNC còn khá khiêm tốn; nguồn lực đầu tư cho các NNC còn hạn chế.

Ngoài ra, về phía quản lý nhà nước, trường ĐH, còn thiếu chính sách cụ thể, đủ mạnh để hỗ trợ, thúc đẩy sự hình thành, phát triển các NNC trong các trường ĐH.

Đầu tư manh mún làm cản trở hoạt động nghiên cứu của trường đại học - 2

Các nhà khoa học thảo luận tại hội thảo

GS Đức kiến nghị, cần sớm ban hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình hành phát triển các NNC trong các trường ĐH hiện nay.

Các chính sách cần được xây dựng theo hướng quy định tiêu chí để phân loại các NNC; cần được lưu ý theo hướng ở lĩnh vực khoa học khác nhau thì cần có tiêu chí đánh giá và hỗ trợ đầu tư khác nhau. Các NNC cũng có quy mô, trình độ, thành tích đào tạo, nghiên cứu khác nhau, khả năng kết nối, hợp tác trong ngoài nước rất khác nhau.

 Do vậy khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho NNC cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm bảo đầu tư không lãng phí, tránh cào bằng và đem lại hiệu quả cao nhất.

Phải chấm dứt tình trạng đầu tư manh mún

Tại hội thảo, GS Nguyễn Văn Minh – Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho rằng, cần xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực của đất nước từng giai đoạn và đặt yêu cầu đối với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo; từ đó đưa ra nhiệm vụ đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm nghiên cứu, đào tạo; gắn kết nghiên cứu, đào tạo và chuyển gia công nghệ. Cần chấm dứt tình trạng đầu tư manh mún, dàn trải, không đầu tư khi thiếu các luận cứ cốt yếu (sứ mạnh, nhân lực...). Vì vậy, cần có tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể để xem xét đầu tư.

PGS.TS Đỗ Ngọc Mỹ - Hiệu trưởng Trường ĐH Quy Nhơn – đưa đề xuất, trên cơ sở tham khảo tính hiệu quả của các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc tế và trọng nước, cần tổ chức tốt việc xây dựng các bộ tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của các phòng thí nghiệm trọng điểm trong từng ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở các tiêu chí này, các phòng thí nghiệm sẽ thực hiện, đánh giá hoạt động của mình, từ đó chọn ưu tiên đầu tư phòng thí nghiệm hoạt động hiệu quả.

Những phòng thí nghiệm được coi là trọng điểm được nhà nước ưu tiên đầu tư tài trợ phải là nơi thể hiện được một định hướng phát triển thuyết phục cùng đội ngũ các nhà nghiên cứu giàu năng lực, có kinh nghiệm và khát vọng cống hiến. Năng lực, kinh nghiệm nhất thiết phải được minh chứng qua những sản phẩm nghiên cứu cụ thể.

Nhật Hồng