Tiêu chí nào để xếp tài sản cán bộ vào diện bất minh?

(Dân trí) - Thẩm tra báo cáo tiếp thu, giải trình của Chính phủ về dự thảo Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi), UB Tư pháp của Quốc hội đề nghị quy định cụ thể tiêu chí làm căn cứ để xác định trường hợp tài sản, thu nhập của cán bộ được coi là “không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc”...

Thu hẹp diện cán bộ phải kê khai tài sản hàng năm

Tán thành với quy định mọi cán bộ, công chức đều phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập lần đầu, đa số ý kiến UBTP cho rằng, so với nhóm đối tượng giữ chức vụ từ Giám đốc sở trở lên hoặc những cán bộ, công chức, viên chức khác làm việc ở một số vị trí công tác trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao cần phải kiểm soát chặt chẽ thì trước mắt, để phù hợp với thực tế và khả thi, nhóm đối tượng cán bộ, công chức còn lại chỉ cần kiểm soát tài sản, thu nhập ở mức độ đơn giản hơn.

Mục đích chủ yếu của việc này là nhằm tạo cơ sở dữ liệu để so sánh, đối chiếu khi tài sản, thu nhập của họ có biến động từ 300 triệu đồng trở lên trong 1 năm hoặc khi có tố cáo, có dấu hiệu về việc kê khai không trung thực.

So với luật hiện hành, phương thức kê khai đã có sự thay đổi theo hướng thu hẹp đối tượng có nghĩa vụ kê khai hàng năm, chỉ bao gồm những người giữ các chức vụ cao hoặc làm việc ở những vị trí có nguy cơ tham nhũng cao, qua đó nhằm bảo đảm tập trung nguồn lực cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập, tăng cường ý thức tuân thủ của người kê khai, bảo đảm tính khả thi và góp phần khắc phục được tính hình thức của việc kiểm soát tài sản, thu nhập như thời gian qua.

Cũng có ý kiến đề nghị thu hẹp đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, tập trung vào những vị trí có nguy cơ tham nhũng cao. Việc mở rộng sẽ được thực hiện khi đã làm tốt công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của nhóm đối tượng này và có đủ nguồn lực cho việc kiểm soát.

Ý kiến này cho rằng, theo quy định của Luật Phòng chống tham nhũng (PCTN) hiện hành thì đối tượng phải kê khai là cán bộ giữ chức vụ từ Phó phòng UBND cấp huyện và tương đương trở lên và được thực hiện hàng năm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc kê khai tài sản, thu nhập còn hình thức, hiệu quả thấp mà nguyên nhân là do việc kê khai chủ yếu dựa vào ý thức tự giác của người kê khai, số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập quá lớn (trung bình khoảng hơn 1 triệu bản kê khai mỗi năm), vượt quá khả năng của các cơ quan có trách nhiệm kiểm soát tài sản, thu nhập. Nếu mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai như dự thảo Luật (cho dù là kê khai lần đầu) mà không theo dõi biến động, không xác minh tài sản, thu nhập của họ thì lại không khắc phục được tính hình thức như thời gian qua.

Bên cạnh đó, việc mở rộng đối tượng kê khai nhưng lại đồng thời thu hẹp đầu mối cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập cũng sẽ tạo áp lực rất lớn đối với cơ quan này và có thể dẫn đến tiếp tục thiếu hiệu quả trong kiểm soát tài sản, thu nhập.

Có ý kiến cho rằng, muốn PCTN thực chất, hiệu quả thì cần có cơ chế kiểm soát thu nhập và thực hiện thanh toán qua tài khoản đối với mọi thành viên trong xã hội.

Áp thuế hay phạt tiền đều ở mức 45% tài sản bất minh


Sau thẩm tra, UB Tư pháp tiếp tục đưa ra cả 2 phương án về xử lý tài sản bất minh để Quốc hội thảo luận, quyết định (Ảnh: Như Phúc)

Sau thẩm tra, UB Tư pháp tiếp tục đưa ra cả 2 phương án về xử lý tài sản bất minh để Quốc hội thảo luận, quyết định (Ảnh: Như Phúc)

Báo cáo thẩm tra cũng dành dung lượng lớn cho vấn đề xử lý tài sản không giải trình được nguồn gốc của cán bộ.

Theo lựa chọn của Chính phủ, hướng xử lý sẽ là cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập yêu cầu cơ quan thuế thực hiện việc thu thuế thu nhập cá nhân. Mức thuế suất cụ thể là 45% của phần thu nhập tăng thêm mà không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc.

Hướng xử lý thứ hai được nêu ra là cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền bằng 45% giá trị của phần tài sản, thu nhập chênh lệch hoặc tăng thêm không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc.

Đối với cả 2 phương án, dự thảo Luật đều quy định người bị thu thuế hoặc bị xử phạt hành chính có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện tại Tòa án hành chính về kết luận xác minh tài sản, thu nhập. Việc thu thuế hay xử phạt hành chính đều không loại trừ trách nhiệm hình sự nếu các cơ quan có thẩm quyền chứng minh tài sản đó do phạm tội mà có.

Nêu quan điểm của UBTP, bà Nga cho biết hiện cơ quan thẩm tra cũng có hai loại ý kiến chủ yếu. Nhóm ý kiến tán thành với phương án 1 của dự thảo Luật cho rằng, đối với tài sản, thu nhập mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc, nhưng Nhà nước cũng chưa chứng minh được tài sản này có nguồn gốc bất hợp pháp thì trước mắt, có thể coi đây là các khoản thu nhập phát sinh mà người kê khai chưa nộp thuế và buộc họ phải nộp thuế là phù hợp trong điều kiện hiện nay. Mức thuế suất 45% cũng nhận được đồng tình cao.

Nhóm ý kiến thứ hai tán thành với phương án 2 của dự thảo luật vì cho rằng, mối quan hệ giữa Nhà nước với cán bộ, công chức, viên chức trong kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập là mối quan hệ hành chính. Cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh chấp hành Luật PCTN, trong đó có nghĩa vụ trung thực, minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập.

Vì vậy, đối với tài sản, thu nhập thực tế lớn hơn tài sản, thu nhập đã kê khai hoặc tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc thì Nhà nước sẽ xử phạt hành chính đối với hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, không minh bạch.

Tuy nhiên, do hiện nay Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCTN, chưa quy định về thẩm quyền xử phạt và mức phạt, vì thế nếu áp dụng theo phương án này thì cần sửa đổi Luật Xử lý vi phạm hành chính để bổ sung xử phạt hành chính trong lĩnh vực PCTN, đồng thời sửa đổi về thẩm quyền, mức phạt. Về mức phạt, UBTP đề nghị cân nhắc cho phù hợp.

Ngoài ra, UBTP đề nghị quy định cụ thể tiêu chí làm căn cứ để xác định trường hợp nào được coi là tài sản, thu nhập “không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc” để tránh tùy tiện, thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật.

P.Thảo