Phát triển thủy điện phải đảm bảo được môi trường, sinh kế của dân

(Dân trí) - Ngày 28/10, tại TP Huế diễn ra diễn đàn nhân dân “Thủy điện miền Trung, Tây Nguyên - Quan tâm của người dân và trách nhiệm các bên liên quan” với sự tham gia hơn 100 đại biểu từ các tỉnh ĐăkLăk, Đăknông, Phú Yên, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và Quảng Bình…

6 bất cập lớn từ thủy điện

Diễn đàn do Tổ chức Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN), Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Xã hội (CSRD) phối hợp với UBMTTQVN tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức, nhằm lắng nghe tiếng nói của những người đang chịu tác động tiêu cực do thủy điện mang lại. Từ đó, các tổ chức chính trị xã hội, đại diện quyền lợi nhân dân có thêm thông tin, bằng chứng để thực hiện vai trò tư vấn, phản biện xã hội trước chính phủ và các nhà hoạch định chính sách.

Các dự án thủy điện được xây dựng trong thời gian vừa qua đã làm gia tăng một phần năng lượng quốc gia và khu vực nhưng cũng đã gây nhiều tranh cãi, đặc biệt trong khoảng 5 năm qua, do xuất hiện ngày càng nhiều hệ lụy tiêu cực về môi trường và xã hội tác động đến cộng đồng dân cư sống ở vùng miền Trung – Tây Nguyên.

Th.s.Lâm Thị Thu Sửu, Trưởng ban điều hành Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam cho hay, dưới vai trò giám sát, phản biện độc lập và vận động chính sách liên quan đến tài nguyên nước dựa vào hoạt động thực tiễn, có 6 bất cập của thủy điện cần đáng quan tâm.

Thủy điện không hề rẻ theo tính toán như hiện nay bởi vì nhiều chi phí môi trường và xã hội liên quan đến nó đã không được ước tính và đầu tư đầy đủ. Thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy của sông, gây xói lở bờ sông, gây ra tình trạng khô hạn và ngập lũ ở hạ du, ảnh hưởng đến sản xuất, đi lại, vận chuyển của người dân.

Hiện thủy điện đã làm suy thoái rừng đáng kể, thay đổi hệ sinh thái của sông, làm thay đổi tập tính các loài thủy sinh, nhiều loài không thể tồn tại ảnh hưởng đến sinh kế người dân. Nhiều người dân bị di dời, tái định cư do thủy điện đã gặp rất nhiều khó khăn về sinh kế, văn hóa nơi ở mới, đặc biệt đất đai không đáp ứng được nhu cầu sản xuất và nhu cầu an ninh lương thực tối thiểu.

Phát triển thủy điện phải đảm bảo được môi trường, sinh kế của dân
Đất rẫy nơi ở mới của thôn Nước Lang (xã Phước Xuân, huyện Phước Sơn, huyện Quảng Nam) có nhiều sỏi, đá, đất cứng và nằm cách xa nhà hơn ở nơi cũ nên người dân chỉ trồng một số cây lúa tỉa, sắn, mía...

Mặc dù đã có nhiều văn bản chính sách quy định của nhà nước liên quan nhưng việc thực thi đang còn nhiều khoảng trống. Việc quản trị các công trình thủy điện từ khâu quy hoạch đến khâu vận hành công trình còn nhiều bất cập. Nhiều báo cáo Đánh giá tác động môi trường không sát với thực tế mà mang tính thủ tục, đối phó. Nhiều cam kết bảo vệ môi trường không được thực hiện.

Cộng đồng dân cư ở lưu vực sông có thủy điện, bao gồm cả những người sống ở hạ du chịu ảnh hưởng nhiều nhất nhưng tiếng nói của họ chưa được lắng nghe trong quá trình quy hoạch, phê duyệt và thực hiện dự án thủy điện.

Phát triển thủy điện phải đảm bảo được môi trường, sinh kế của dân
Nước sông dâng nhanh đột ngột khi trời nắng do thủy điện xả lũ, người dân huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam) lo sợ chạy tránh lụt

5 nhóm rủi ro hệ lụy đến nhiều mặt đời sống người dân

Theo ông Lê Anh Tuấn, Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu – ĐH Cần Thơ, lưu vực sông của khu vực miền Trung – Tây Nguyên được xem là nơi có mật độ các dự án thủy điện cao nhất nước. Việc chủ đầu tư không có nhiều chuyên môn trong thi công và vận hành thủy điện, hoặc đầu tư không đúng mức, đặc biệt xem nhẹ các yếu tố môi trường – xã hội mà người dân là đối tượng chịu nhiều thiệt hại và tổn thương nhất.

Ông Tuấn đã đưa ra 5 nhóm rủi ro chính rất đáng lo ngại từ hoạt động thủy điện trên khảo sát thực tế từng thủy điện cụ thể. 
 
Một là tạo ra những trận lũ dữ bất thường cho vùng hạ du, gây thiệt hại cho con người, cuốn trôi hoa màu, gia súc, sạt lở bờ sông, hư hại công trình giao thông, gián đoạn sinh hoạt (Thủy điện A Vương – Quảng Nam tháng 9/2009, thủy điện Sông Ba Hạ - Phú Yên tháng 10/2013, thủy điện An Khê – Kanat ở Bình Định tháng 5/2010). Nguyên do là xả lũ không hợp lý, hồ chứa không có/không đủ dung tích phòng lũ, gây ngập lũ nghiêm trọng vùng hạ du.

Thủy điện Sông Ba Hạ xả nước về hạ lưu gây ngập lụt
Thủy điện Sông Ba Hạ xả nước về hạ lưu gây ngập lụt

Hai là thủy điện đã gây khô hạn nghiêm trọng vùng hạ du, tình trạng thiếu nước sinh hoạt phổ biến, hiện tượng xâm nhập mặn gia tăng, không đủ nước tưới làm nhiều cánh đồng không canh tác được hoặc năng suất kém, ô nhiễm môi trường gia tăng (Thủy điện Đắk My 4 – Quảng Nam từ 2012 đến nay, thủy điện Sông Ba Hạ - Phú Yên năm 2013, thủy điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh, Thủy điện Thượng Kontum). Nguyên nhân là thủy điện đã chuyển nước sang dòng chảy khác, xả nước về hạ du ít, không đảm bảo dòng chảy tối thiểu.

Nhóm thứ ba gây ra nhiều lo lắng, hoang mang cho người dân, giảm hiệu quả phát điện, hư hại công trình lân cận, ảnh hưởng đến sinh hoạt và an ninh – an toàn khu vực. Lý do: nứt – rò rỉ nước thân đập, vỡ đập, động đất, lún sụt đất vùng lân cận (Thủy điện Sông Tranh 2 – Quảng Nam từ 2012 đến nay, thủy điện Đắk Mek 3 – Kon Tum vỡ tường đập năm 2012, thủy điện Ia Krel 2 – Gia Lai bị vỡ đập 2 lần, thủy điện Đạm Bol – Lâm Đồng bị vỡ đường ống tháng 6/2011).

Thủy điện Sông Tranh 2 bị nứt, rò rỉ nước ở thân đập 
Thủy điện Sông Tranh 2 bị nứt, rò rỉ nước ở thân đập cùng nhiều trận động đất bất ngờ đã gây hoang mang, lo sợ cho người dân 
Sự cố vỡ đập 2 lần ở thủy điện Ia Krel 2 – Gia Lai
Sự cố vỡ đập 2 lần ở thủy điện Ia Krel 2 – Gia Lai

Ở hai nhóm cuối, thủy điện đã làm suy giảm môi trường sông (do nước và phù sa bị giữ lại ở hồ chứa, công trình đập ngăn dòng chảy sông ngòi tự nhiên, hồ chứa làm mất đất rừng) dẫn đến giảm lượng cá tự nhiên, giảm phù sa về hạ du, mất đất rừng nghiêm trọng, ô nhiễm nước, ảnh hưởng hệ sinh thái sông, đe dọa động vật hoang dã). Các vấn đền xã hội liên quan đến vấn đề đền bù, tái định cư, bất công xã hội… ) khi người dân bị buộc phải di dời, đến nơi mới bất lợi hơn, đền bù không hợp lý, mất nguồn sinh kế, mai một các tập quán… thì đều xảy ra ở hầu hết các vùng có công trình thủy điện.

Ông Trần Xuân Vinh, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam nhấn mạnh: “Phát triển thủy điện phục vụ lợi ích quốc gia là chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên, việc phát triển thủy điện phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các bên, đặc biệt là vấn đề môi trường và sinh kế của người dân cần được ưu tiên hàng đầu để xem xét trong quá trình phát triển thủy điện”.

Bà Lương Thị Trường, Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQVN phát biểu: “Diễn đàn này diễn ra sẽ có ý nghĩa quan trọng khi Đảng, Nhà nước Việt Nam và chính MTTQ Việt Nam đang muốn tăng cường, thúc đẩy vai trò giám sát và phản biện xã hội của MTTQ các cấp và các cơ quan tư vấn phản biện xã hội khác”.


Đại Dương