Người chuyển giới được thay đổi tên, hộ tịch phù hợp với giới tính mới

(Dân trí) - Thông qua Bộ luật Dân sự (sửa đổi) sáng nay, 24/11, Quốc hội thống nhất quan điểm phải có luật về việc chuyển đổi giới tính. Người sau khi chuyển giới được thay đổi hộ tịch và có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi.

 

Chủ nhiệm UB Pháp luật Phan Trung Lý cho rằng, pháp luật Việt Nam cần ghi nhận vấn đề chuyển đổi giới tính nhằm đáp ứng nhu cầu của một bộ phận trong xã hội (ảnh: Quochoi.vn).
Chủ nhiệm UB Pháp luật Phan Trung Lý cho rằng, pháp luật Việt Nam cần ghi nhận vấn đề chuyển đổi giới tính nhằm đáp ứng nhu cầu của một bộ phận trong xã hội (ảnh: Quochoi.vn).

 

Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật trước khi Quốc hội biểu quyết, Chủ nhiệm UB Pháp luật Phan Trung Lý nêu cụ thể về các nội dung liên quan đến việc xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính.

Về quyền xác định lại giới tính (Điều 36), Chủ nhiệm Phan Trung Lý cho biết, có ý kiến đề nghị cần xác định rõ, đây không phải là trách nhiệm của cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính mà là trách nhiệm của cơ quan nhà nước.

UB Thường vụ Quốc hội nêu quan điểm, việc đăng ký thay đổi hộ tịch vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cá nhân đã xác định lại giới tính. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan trong việc thực hiện đăng ký lại thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Quy định này, theo đó, được giữ như phương án trình trong dự thảo.

Vấn đề chuyển đổi giới tính (Điều 37) cũng vẫn có những quy định trái chiều. Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị quy định trong Bộ luật Dân sự việc Nhà nước công nhận quyền chuyển đổi giới tính. Một số ý kiến tán thành với Dự thảo theo hướng việc chuyển đổi giới tính sẽ được thực hiện theo quy định của luật; có ý kiến đề nghị việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Một số ý kiến đại biểu Quốc hội lại đề nghị cung cấp thêm thông tin về thực tiễn và nhu cầu chuyển đổi giới tính để Quốc hội có cơ sở xem xét, quyết định.

Giải trình về những ý kiến này, ông Phan Trung Lý nhấn mạnh, việc chuyển đổi giới tính liên quan đến những yêu cầu và điều kiện khác nhau về độ tuổi, tình trạng hôn nhân, các vấn đề về an sinh xã hội, y tế và nhiều vấn đề xã hội khác. Pháp luật Việt Nam cần ghi nhận vấn đề này nhằm đáp ứng nhu cầu của một bộ phận trong xã hội, đồng thời cũng bảo đảm tính thận trọng, phù hợp với thông lệ quốc tế và không trái với truyền thống, phong tục tốt đẹp của dân tộc.

Kết quả lấy phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội cho thấy, có 282/366 số phiếu thu được tán thành với quy định về việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật và việc thay đổi hộ tịch, các quyền nhân thân khác sau khi cá nhân chuyển đổi giới tính.

Với tinh thần đó, trên cơ sở phương án dự thảo do Chính phủ trình và kết quả lấy phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội, UB Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho tách quy định về chuyển đổi giới tính thành một Điều và chỉnh lý nội dung này theo hướng xác định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.

Theo đó, việc chuyển đổi giới tính hiện tại vẫn chưa có luật quy định. Để thực hiện việc này, cần xây dựng luật cụ thể.

Một nội dung khác được chú ý là quy định về lãi suất (Điều 468), trong 2 loại ý kiến (loại quy định mức lãi suất cố định trong Bộ luật là tối đa 20%/năm của khoản tiền vay và ý kiến sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu), UB Thường vụ Quốc hội tán thành với hướng ý kiến thứ nhất.

Quy định được thể hiện cụ thể: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, UB thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất”.

Theo đó, trường hợp hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.

P.Thảo