Đạm Phương nữ sử - “ký giả” tâm huyết, tài hoa

(Dân trí) - Đạm Phương nữ sử là danh sĩ đầu thế kỷ 20. Từ 1918 - 1930bút danh Đạm Phương xuất hiện đều trên nhiều báo, tạp chí từ Nam chí Bắc như tạp chí Nam phong, Hữu thanh, Tiếng dân, báo Trung Bắc tân văn, Thực nghiệp dân báo, Đông phương, Phụ nữ tân văn…

Kỷ niệm 130 năm ngày sinh của bà, chúng tôi đăng dưới đây bài của nhà báo Phan Quang viết chủ yếu về hoạt động báo chí của Đạm Phương nữ sử.                                                                             

Cuộc đời và thời cuộc

Đời bà Tôn nữ Đồng Canh, bút danh Đạm Phương nữ sử, trùng hợp nhiều sự kiện bi tráng của dân tộc ta.

Bà ra đời năm 1881, khi toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh đã trở thành thuộc địa, thực dân Pháp nổ lực đặt cả nước ta dưới ách đô hộ của chúng. Năm 1882, đại tá hải quân Henri Rivière cho nã đại bác vào thành Hà Nội, tiếp tục công việc đại uý Francis Garnier thất bại tám năm trước. H. Rivière cho dù bị quân dân ta bắt đền tội, nền độc lập của Việt Nam không nhờ vậy mà có thể sống còn. Năm 1884, triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước Giáp Thân. Đất nước bị chia cắt. Từ năm 1905, thực dân Pháp chuyển trọng tâm từ cái chúng gọi là “bình định” sang “khai thác”, đàn áp và bóc lột có hệ thống nước ta. Một nhà sử học Jean Chesneaux gọi rất đúng những năm 1882-1905 là “Thời kỳ cáo chung của nền độc lập Việt Nam”.
 
Đạm Phương nữ sử - “ký giả” tâm huyết, tài hoa - 1
Bà Đạm Phương (ảnh tư liệu).

Bà Đạm Phương là cháu nội vua Minh Mạng, con gái Hoàng Hoá quận vương Miên Triện, một vị đại thần đồng thời là một nhà thơ. Tuy vậy, trong cảnh triều đình hỗn độn, đất nước rối ren, thảm cảnh “bốn tháng ba vua”, tuổi thơ của quận chúa cành vàng lá ngọc không hề êm ấm. Bà lên ba (1883), thân sinh bà bị hạ phẩm hàm, giam lỏng, đưa đi quản thúc. Bà lên bốn (1884), gia đình phải bồng bế chạy loạn thất thủ kinh đô.

Năm 1917, người Pháp cho xuất bản tạp chí Namphong. Năm sau, chủ bút Phạm Quỳnh vào Huế, đến thăm bà Đạm Phương, ngỏ lời mời bà cộng tác. Lời mời ấy là cú huých đưa nhà thơ đến với báo chí. Từ bấy, bà ít dùng chữ Hán mà biểu đạt bằng quốc ngữ. Sự cộng tác của bà với tạp chí Nam Phong không nhiều, có lẽ tại tạp chí ấy thiên về học thuật trong khi bà quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội chăng.

Năm 1925, nhà yêu nước Phan Bội Châu bị toà án Pháp kết án tử hình. Trước sự phản kháng kịch liệt của nhân dân ta, thực dân phải xoá án, đưa cụ về giam lỏng tại Huế. Bà Đạm Phương có dịp tiếp xúc bậc chí sĩ. Bà cảm nhận: “Từ khi cụ Phan đặng về Huế, dư luận rất là phân vân… Nhưng coi ra cụ rất là trấn tĩnh, hành chỉ rất là lỗi lạc quang minh, có vẻ chân thực đáng kính… Cho nên cụ Phan vẫn là cụ Phan, mà cảm tình cũng tức là cảm tình chân chính hết thảy” (Thực nghiệp dân báo, ngày 3-2-1926). Tại lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh tổ chức ở Đàn Nam Giao, Huế, bà Đạm Phương được mời đọc bài điếu văn thống thiết do cụ Sào Nam viết. Chỉ mươi hôm sau ngày “Nữ công học hội” ra mắt (15-6-1926), cụ Phan đã đến thăm, diễn thuyết về “Phụ nữ vận động”.

Một sự kiện làm đảo lộn cuộc sống bà Đạm Phương. “Nữ công học hội” ra đời. Lễ khánh thành có sự hiện diện của Khâm sứ Pháp cùng nhiều nhân sĩ, trí thức Việt Nam. Từ đây, bà có thêm điều kiện mở rộng giao lưu với nữ giới ba miền. Một số trước tác của bà được xuất bản, trong đó có cuốn ấn hành cả vạn bản. Uy tín của bà đang lên, “tạo nhiều thuận lợi cho sự tập hợp của phụ nữ ở Huế” (Hồi ký bà Trần Thị Như Mân, 1985), thì đúng vào lúc nhiều người kỳ vọng ở học hội, bà Hội trưởng bị Pháp bắt giam, nhà cửa bà bị lục soát, bởi chúng nghi bà có liên quan đến đảng Tân Việt. Hành động tàn bạo ấy là cái sốc lớn đối với bà. Tuy không bị kết án tù, bà phải từ chức Hội trưởng “Nữ công học hội”.

Hoạ vô đơn chí. Con trai đầu của bà đang dạy học thì bị buộc thôi việc và trục xuất khỏi thành phố Huế quê hương. Con trai thứ bị đuổi học vì tham gia bãi khoá, một thời gian sau bị bắt giam ở Sài Gòn. Người con cả lại bị Pháp lại bắt lần nữa. Ông bị đánh đập dã man, về nhà thì qua đời (1931). Năm sau (1932), phu quân bà Đạm Phương lâm bệnh từ trần. Nhiều nỗi đau dồn dập, cộng thêm các sức ép khác ảnh hưởng đến sức khoẻ, có lẽ là những nguyên nhân khiến Đạm Phương nữ sử giã từ báo chí, tập trung vào việc làm sách. Từ cuối năm 1930 trở đi, vắng hẳn bút danh Đạm Phương trên các phương tiện truyền thông.  

Đáng chú ý là vào thời gian này, thời cuộc đổi thay. Báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ở nước ngoài (1925), chuẩn bị sự ra đời của Đảng Cộng sản (1930). Sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta qua bước ngoặt. Giai cấp công nhân Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo. Trên thực tế. diễn ra cuộc “chuyển giao thế hệ”. Nhiều nhà yêu nước vốn là đảng viên đảng Tân Việt nay trở thành yếu nhân của Đảng Cộng sản hoặc nhân sĩ gắn bó với Đảng như Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Tôn Quang Phiệt… Người con trai thứ của bà Đạm Phương là Hải Triều từ năm 1933 nổi tiếng với loạt bài luận chiến về duy vật - duy tâm...  

Mốc cuối cùng của đời bà Đạm Phương cũng gặp sự trùng hợp. Bà từ trần cuối năm 1947 tại Thanh Hóa. Thời gian này, quân đội Pháp thất bại trong trận tấn công lên Việt Bắc với mưu đồ thâm độc tìm bắt cơ quan lãnh đạo đầu não của nước ta. Ba tỉnh Bình Trị Thiên đã vượt qua những ngày gian khó nhất. Thời cuộc hẳn cũng làm cho bậc danh sĩ thanh thản phần nào lúc ra đi.

Xã hội và báo chí Việt Nam đầu thế kỷ 20

Sẽ khó hiểu đầy đủ cuộc đời và cống hiến của Đạm Phương nữ sử vào quá trình tiến hoá của dân tộc ta, trong đó có báo chí, nếu không điểm lại bối cảnh xã hội và báo chí Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Vừa chiếm được ba tỉnh Đông Nam Bộ, thực dân Pháp đã bắt tay khai thác vùng đất mới đoạt, lấy hoa lợi bù đắp chi phí xâm lăng. Triều đình Huế chấp nhận guồng máy cai trị của nước ngoài. Theo nhận xét của một nhà báo thời ấy, “Viện Cơ mật của triều đình đã biến thành những con rối bọc nhung lụa, mà đầu mối các sợi dây điều khiển nằm ở mấy ngón tay thành thạo của khâm sứ Pháp”.
Đạm Phương nữ sử - “ký giả” tâm huyết, tài hoa - 2
Sách giáo dục nhi đồng của Đạm Phương.

Chính khách cáo già Paul Doumer, người tin cậy của các tập đoàn công nghiệp-tài chính Pháp, được cử sang làm toàn quyền Đông Dương. Dưới sự điều hành của ông (kể cả thời gian sau khi ông về nước chuẩn bị tranh cử tổng thổng Pháp), một số cơ sở hạ tằng giao thông, công nghiệp ra đời: Cầu Long Biên nối hai bờ sông Hồng, ga Hàng Cỏ và tuyến đường sắt Hải Phòng-Vân Nam, các doanh điền lúa gạo ở miền Tây và đường sắt Sài Gòn-Mỹ Tho, các mỏ than Hồng Gai, Cẩm Phả và đồn điền cao su Biên Hòa, Tây Ninh, vv... Các trục đường được đánh số 7 (Nghệ An), 8 (Hà Tĩnh), 9 (Quảng Trị), vv… nối bờ biển miền Trung với Lào, đến tận bờ sông Mê Kông, xây đắp bằng mồ hôi và máu của dân nghèo miền Trung.

Về khách quan, những cơ sở hạ tằng ấy có góp phần nhất định phát triển, kinh tế, làm biến đổi xã hội nước ta. Kèm theo là sự áp bức, bóc lột tàn bạo, thuế má nặng nề. Thủ công nghiệp, các nghề truyền thống suy tàn. Trai tráng bị đẩy đi làm phu đồn điền các vùng đất mới. “1905-1930 là thời kỳ phụ thuộc kinh tế và rối loạn xã hội của Việt Nam” (J. Chesneaux).

Nhân tố tích cực duy nhất là sự phổ cập chữ quốc ngữ. Nhưng đó không đơn thuần là công lao người Pháp. Chữ viết theo mẫu tự la tinh vốn được đặt ra từ cuối thế kỷ 16. Qua ba trăm năm, nó hoàn thiện dần, dù vậy vẫn không ra khỏi phạm vi các nhà thờ Thiên chúa giáo. Cũng không phải ngay từ đầu người Pháp đã mặn mà với chữ quốc ngữ. Sau khi chiếm Nam Kỳ, họ đã thử phổ biến các chính sách thực dân thông qua chữ Hán5 Tuy nhiên, ở nông thôn ta có bao nhiêu người thông thạo chữ ấy? Họ quay sang dùng thẳng tiếng Pháp theo mô hình đã thực hiện thành công ở một số nước thuộc địa châu Phi, song gặp lực cản lớn là nhân dân Việt Nam máu thịt đời đời gắn bó với tiếng mẹ đẻ. Chữ quốc ngữ thoạt đầu bị coi là sản phẩm ngoại lai xa lạ với “chữ nghĩa thánh hiền”. May mắn là cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trước cảnh nước mất nhà tan, các nhà trí thức Việt Nam nhận ra vai trò và tác dụng của chữ quốc ngữ. Các nhà “tân học” đã đành, mà nhiều nhà “cựu học” cũng coi đó là phương tiện đắc lực trong việc mở mang dân trí. Tiến sĩ Trần Quý Cáp trước khi bị hành quyết (1908), đã có bài vè kêu gọi: Chữ quốc ngữ là hồn trong nước/ Phải đem ra tính trước dân ta… Các chí sĩ Đông Kinh nghĩa thục đều khẳng định:Phàm người trong nước đi học, nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên (Văn minh tân học sách, 1907),  vv. Những người nắm các cơ quan ngôn luận nhằm mục đích truyền bá “Âu Tây tư tưởng” hay “nền văn minh Thái Tây” thì đương nhiên dùng chữ quốc ngữ. Nhờ điểm gặp nhau ấy, cụ nghè Ngô Đức Kế từ nhà tù Côn Đảo trở về có thể nhận xét: “Các nhà tân học, cựu học đều biết rằng muốn khai thông phong khí cho dễ, truyền bá văn minh cho mau, thì phải dùng tiếng mình, viết chữ mình” (Tạp chí Hữu thanh, 1924). Việc thi cử bằng chữ Hán bị bãi bỏ. Các trường dạy quốc ngữ mở ra ở nhiều nơi. Tình hình kinh tế xã hội mới là mảnh đất cho đội ngũ công nhân Việt Nam lớn mạnh và sự thành lập Đảng Cộng sản.   

Sự ra đời của báo chí Việt Nam năm 1865 với tờ Gia Định báo báo hiệu sự lên ngôi của chữ quốc ngữ, đồng thời là một động lực đưa quốc ngữ mau chóng trở thành một thành tố đắc lực của văn hiến Việt Nam. Tuy vậy, đầu thế kỷ 20, báo tiếng Việt còn rất non yếu. Trong số 120 tờ báo nộp lưu chiểu ở cả ba kỳ (1925), báo tiếng Pháp chiếm đến 80%. Nhiều tờ báo tiếng Việt lại có cuộc sống quá ngắn do luôn gặp khó khăn về tài chính, và đặc biệt nếu để lộ khuynh hướng không tán đồng chính sách thực dân.  

Chế độ báo chí hết sức khắt nghiệt. “Báo chí ở thuộc địa không thể viết những gì trái ý quan toàn quyền” (nhận định của Hội Nhân quyền Pháp thời bấy giờ). Phải chờ đến lúc nhà chính khách có tài mị dân là Albert Sarraut sang nhậm chức toàn quyền Đông Dương, ông ta hiểu không thể khuất phục dân tộc Việt Nam bằng sức mạnh, mà đi đôi với vũ lực cần nhiều biện pháp mềm mỏng. Một số luật lệ được nới lỏng. Báo chí bớt ngôt ngạt phần nào, có điều kiện xuất hiện nhiều hơn. Nhiều sĩ phu yêu nước khéo léo sử dụng báo chí hợp pháp làm nơi bộc bạch tâm huyết. Phan Yên báo, tờ báo thứ hai ra đời tiếp sau Gia Định báo do người Việt Nam làm chủ bút vừa cất tiếng chỉ trích chính sách của nhà cầm quyền đã bị đóng cửa ngay. Tờ Nông cổ mín đàm do người Pháp bỏ tiền ra lập làm nơi “mạn đàm về nông nghiệp và thương mại”6 vẫn được một nhiều người Việt Nam dùng làm diễn đàn cổ súy cho “phong trào Minh Tân”, dùng hàng nội hóa. Tạp chí Hữu thanh (Hà Nội) danh nghĩa chỉ là cơ quan của Hội Tương tế và Kỹ nghệ Bắc Kỳ, vẫn đăng tải bài của cụ Ngô Đức Kế “Luận về chính học hay tà thuyết”, bác bỏ một số luận điểm của tạp chí Nam phong8...

Với con mắt của một luật gia, nhà yêu nước Nguyễn An Ninh sớm nhận ra cái khe trong pháp luật thực dân là sự kỳ thị giữa báo chí viết bằng tiếng Pháp và báo chí viết bằng tiếng Việt. Từ Pháp về, ông cho ra tờ La Clôche félée (Tiếng chuông rè) làm diễn đàn, qua đó làm tốt vai trò “người có công đánh thức cả một thế hệ thanh niên Việt Nam mê ngủ những năm 1920”, như nhận định của Giáo sư Trần Văn Giàu sau này.

Có thể khái quát thực trạng báo chí Việt Nam đầu thế kỷ 20 bằng câu viết của nhà báo cách mạng Trần Huy Liệu trên tờ Pháp Việt nhất gia (1927) như sau: “…Có miệng không được nói, có tư tưởng không được giải bày, đó là cái số kiếp của 25 triệu đồng bào ta, mà cũng là cái đặc ân chính phủ Pháp ban cho 25 triệu đồng bào ta. Lịch sử báo giới ta trải qua mấy chục năm nay, những người làm báo hoàn toàn là những người miệng câm, tai điếc… Mỗi khi ta cầm đến ngòi bút, cầm đến tờ báo không khỏi bầm gan tím dạ, thẹn ruột đau lòng”.

Đạm Phương nử sữ làm báo trong bối cảnh đó.

Phan Quang