1. Dòng sự kiện:
  2. 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ

"Ông vua" vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa (2)

(Dân trí) - Vừa về nước, Phạm Quang Lễ lập tức được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ lên Thái Nguyên cùng cán bộ công nhân xưởng quân khí Giang Tiên tiến hành nghiên cứu chế tạo đạn badôca, một loại vũ khí chủ yếu dùng đánh xe tăng thời đó. Với những đóng góp của ông cho ngành quân giới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng ông danh hiệu "Ông Phật làm súng".

Kỳ II: Phát minh lay chuyển cục diện

Phạm Quang Lễ trở thành Trần Đại Nghĩa

Ngày 20/10/1946, con tàu đưa Hồ Chủ tịch và đoàn tuỳ tùng cập bếën Hải Phòng.  Bến cảng rợp bóng cờ hoa, hàng nghìn đồng bào kéo nhau ra hân hoan chào đón Chủ tịch. Những tiếng reo hò: "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!" dậy lên khắp nơi. Trong lòng chàng trai trẻ Phạm Quang Lễ nghẹn ngào khó diễn tả. Ông tự nhủ lòng phải làm gì đó góp phần xứng đáng với niềm tin yêu của Bác, của người dân đã dành cho mình.

Chỉ 7 ngày sau khi về nước (27/10/1946), Phạm Quang Lễ lập tức được Bác trực tiếp giao nhiệm vụ lên Thái Nguyên, nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu badôca của Mỹ, với hai viên đạn do GS Tạ Quang Bửu lúc này là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cung cấp. Phải bắt tay vào việc ngay. Nhưng mới chỉ được ít hôm thì lại có điện gấp từ Bộ Quốc phòng gọi về gặp Bác Hồ.

Ngày 5/12/1946, Phạm Quang Lễ tới Bắc bộ phủ. Lòng khấp khởi, chàng kỹ sư trẻ không hiểu Bác muốn gặp mình để giao nhiệm vụ gì. Vừa gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng nhưng cũng đầy thân mật bảo: "Kháng chiến sắp đến nơi rồi, hôm nay tôi gọi chú lại để trao cho chú nhiệm vụ làm Cục trưởng quân giới. Chú lo vũ khí cho bộ đội diệt giặc". Bác Hồ giao cho ông toàn quyền hành động trong việc chế tạo vũ khí mà không phải thông qua bất kỳ một cấp nào khác.

Rồi Người căn dặn: "Việc của chú là việc đại nghĩa, vì thế từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa. Dùng bí danh này để giữ bí mật cho chú và để bảo vệ gia đình, bà con chú còn ở trong Nam". Bác giải thích ý nghĩa cái tên: "Một là họ Trần, là họ của danh tướngTrần Hưng Đạo. Hai là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân, với đất nuớc. Đại Nghĩa còn là chữ của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo. Chú có ưng bí danh đó không?".

Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao công trình nghiên cứu súng Badôca. Năm 1996, GS VS Trần Đại Nghĩa đã vinh dự nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu chế tạo Badôca trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.

Thế là từ đấy, cái tên Trần Đại Nghĩa gắn với cuộc đời ông. Có thể nói trong những ngày tháng miệt mài nghiên cứu chế tạo vũ khí ở Chiến khu Việt Bắc là thời gian kĩ sư Trần Đại Nghĩa cảm thấy có ý nghĩa nhất trong cuộc đời hoạt động của mình. Sau này, đến những ngày trước khi qua đời, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa vẫn nhắc lại tình cảm sâu sắc Bác dành cho ông, nhắc lại ngày 5/12 lịch sử, ông được giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục quân giới và trao bí danh đầy ý nghĩa này. Đó là mốc lịch sử rất lớn đối với cuộc đời ông.

Chế tạo súng Badôca

Cùng các cộng sự, Trần Đại Nghĩa bắt tay vào công việc ngay từ tháng 11/1946. Ông say mê làm việc đến quên ăn, quên ngủ. Nhiều đêm ông chỉ mong cho trời chóng sáng để làm việc, nghiên cứu, thử nghiệm. Song công việc không hề dễ dàng. Ông chỉ đạo xưởng Giang Tiên sản xuất thành công một khẩu súng Badôca 60 mm và 50 quả đạn. Khi bắn thử, đạn nổ nhưng chưa xuyên.

Đạn Badôca của Mỹ được nhồi bằng thuốc phóng, còn ta chỉ có loại thuốc súng lấy được từ bom đạn của Pháp. Tất cả đều phải tính toán lại từ đầu và phải hiểu được những nguyên lý cơ bản về thuốc phóng, thuốc nổ. Những kiến thức sách vở 11 năm thu lượm xứ người bắt đầu phát huy tác dụng. Hình ảnh người kỹ sư miệt mài tính toán tốc độ cháy, đốt thử các loại thuốc súng, ngày đêm với cây thước tính trong tay... đã trở nên quá đỗi quen thuộc với các cán bộ Chiến khu. Chỉ một sai sót nhỏ sẽ phải trả giá bằng xương thịt của chiến sĩ nơi trận mạc, vì thế trách nhiệm càng đè nặng lên vai ông.

Những cán bộ chiến khu sau này kể lại, họ rất... sợ khi đi qua phòng ông vì đó là nơi rất nguy hiểm. Trong căn phòng chứa đầy thuốc nổ đủ loại, chỗ nào cũng thấy ngổn ngang bao tải thuốc nổ, trên mặt bàn làm việc la liệt các loại đạn Badôca, quả đang nghiên cứu, quả đã nhồi xong, quả thì chưa nhồi, rồi thì hạt nổ... Kỹ sư lại có thói quen... hút thuốc mỗi lúc tư duy. Rõ ràng tai hoạ luôn rình rập. Cuối cùng, điều kì diệu đã đến. Cuối tháng 2 năm 1947, cuộc thử nghiệm Badôca thành công. Mức đâm xuyên của đạn vừa chế tạo đạt độ sâu 75cm trên tường thành xây gạch tương đương với sức nổ xuyên của đạn Badôca do Mỹ chế tạo. Đây là bất ngờ lớn đối với địch.

Người ta kể rằng một cuộn dây điện trở loại nhỏ, được tháo ra từ một chiếc vôn kế. Nếu không có thì việc nghiên cứu của ông không thể thực hiện được. Nó được dùng làm sợi tóc đốt mồi thuốc súng đen a-moóc, nếu sợi tóc bị đứt thì đạn bị xịt. Trần Đại Nghĩa luôn giữ cuộn dây ấy bên mình, cho đến một đêm đáng nhớ: 2/3/1947. Cuộn dây đã được đem ra sử dụng trong tình trạng khẩn cấp.

Đêm đó, ông Phan Mỹ, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ sản xuất cấp tốc đạn Badôca để cản phá cuộc hành quân của Pháp. Chúng ta đã vây Pháp hơn 2 tháng ở Hà Nội và giờ chúng đang tìm cách thoát ra. Ông Phan Mỹ yêu cầu: "Các đồng chí đã bắn thử Baôca thành công, tuy chưa chắc chắn lắm nhưng tình hình lúc này rất cấp bách. Sáng mai quân Pháp có khả năng chọc thủng mặt trận Cầu Mới- Hà Đông. Đề nghị anh Nghĩa cho nhồi gấp đạn Badôca ngay trong đêm để kịp mang đến cho đồng chí Vương Thừa Vũ trong ngày mai. Anh Vũ đang bảo vệ Bác Hồ và Chính phủ ở Quốc Oai, Hà Tây.

Dưới ánh đèn võ vàng, tất cả đều được huy động nhồi thuốc, lắp đạn. Chẳng ai còn đầu óc nào để nghĩ đến căn phòng đáng sợ của kỹ sư. Cật lực suốt đêm, đến 3 giờ sáng thì tổ nghiên cứu của Trần Đại Nghĩa cùng anh em trong cơ quan Cục Quân giới nhồi lắp được 10 quả đạn mang mã hiệu B60, kèm 1 quả đạn khói, 1 súng Mỹ cải tiến đưa ra mặt trận.

Nỗi kinh hoàng của kẻ địch

Sáng 3/3/1947, máy bay Pháp bắt đầu quần đảo nhằm yểm trợ cho xe tăng, cơ giới của địch đánh chiếm thị xã Hà Đông. Quân ta bố trí dọc đê. Chiếc xe đi đầu bị bắn cháy ngùn ngụt, chiếc thứ 2 cũng bị đạn bắn hỏng. Cả đoàn xe địch khựng lại, hỗn loạn rồi thối lui. Sự xuất hiện của một loại vũ khí mới đã khiến chúng bất ngờ và hoang mang. Ngày 3/3/1947 đã trở thành một mốc son của ngành Quân giới Việt Nam trong việc chế tạo khí tài, súng đạn. Chiến công này góp phần bẻ gẫy cuộc tấn công của địch ra vùng Chương Mỹ, Quốc Oai.

Sau việc sản xuất súng đạn Badôca thành công, cục Quân giới chuyển lên Việt Bắc và tiếp tục sản xuất hàng loại súng này. Vũ khí của ta lúc này rất hiếm, riêng Badôca là loại vũ khí quí. Badôca xuất hiện lần đầu tiên trên thể giới vào Thế chiến 2, năm 1943, đã  trở thành vũ khí đáng sợ đối với nhiều đơn vị quân đội. Tuy nhiên việc một đất nước vừa thoát khỏi cảnh thuộc địa và nửa phong kiến như nước ta đã chế tạo thành công loại vũ khí hiện đại này, thật như huyền thoại và là điều không thể ngờ đến của địch.

Bộ đội sau khi được trang bị nhiều súng Badôca đa có nhiều sáng tạo trong chiến đấu. Nếu trước kia Badôca chỉ nhắm vào các loại xe tăng, thiết giáp thì sau này, bộ đội còn sử dụng để bắn ôtô, lô cốt, dùng thay thế lựu đạn ở những nơi đối phương tập trung đông. Đạn Badôca có tầm xa tới 600m, phạm vi sát thương tới 50m, nhưng không làm hỏng vũ khí đối phương. Vì vậy chúng ta đã tịch thu được nhiều súng đạn của giặc sau mỗi trận thắng. Từ khi đưa vào sử dụng, Badôca đã gây cho địch nhiều tổn thất rất lớn.

Từ các mặt trận, thư của chiến sĩ gửi về ngành quân giới tới tấp. Những người lính trực tiếp chiến đấu đã có nhiều phản hồi giúp kỹ sư hoàn thiện hơn loại vũ khí này. Súng Badôca đã trở thành nỗi kinh hoàng của kẻ địch, nhưng vẫn còn những hạn chế, chẳng hạn như tầm bắn chưa tốt, nếu bắn cách xa 100m thì sức phá sẽ kém đi...

Người lính trông đợi những vũ khí uy lực hơn, tiện dụng hơn, và thế là những kỹ sư lại miệt mài nghiên cứu. Chiến sự ngày một ác liệt, ngoài Badôca chiến trường cần phải có thêm vũ khí hạng nặng. Trần Đại Nghĩa lại đêm ngày nghiên cứu. Năm 1948, khi vũ khí hạng nặng bắt đầu được sản xuất thì Trần Đại Nghĩa  cũng được phong quân hàm Thiếu tướng, trở thành một trong 10 vị tướng đầu tiên của quân đội ta. Khi ấy ông mới 35 tuổi.

Lê Bảo Trung
(Còn nữa)